VẤN ĐÁP PHẬT HỌC: BẬC THÁNH CƯ SĨ SAO PHẢI ĐẢNH LỄ , CÚNG DƯỜNG PHÀM TĂNG
- Thưa đại đức! "Người đắc pháp xuất thế gian là vô cùng cao quý,
xứng đáng để cho chư thiên và nhân loại đảnh lễ, cúng dường". Lời của Đức
Đại Bi thuyết cho Setthà nghe như thế có đúng chăng?
- Thưa đúng.
- Thế tại sao sau đó, Đức Thế Tôn còn thuyết rằng: "Những tại gia
cư sĩ đắc quả thánh Tu-đà-huờn rồi, họ chỉ còn nghiệp rất nhẹ, không còn đọa
vào bốn đường ác, đức tin Tam Bảo đã vững chắc, là người đã thấy rõ pháp; tuy
nhiên, những tại gia cư sĩ đắc quả Thánh Tu-đà-huờn ấy, khi gặp chư tỳ khưu
Tăng bất kể thánh hay phàm, đều phải đứng dậy, mời ngồi, lễ bái và cúng dường".
Lời thuyết này cũng đúng chăng, thưa đại đức?
- Vâng, cũng rất đúng!
- Vậy thì lời thuyết sau phủ định lời thuyết trước? Lời thuyết sau bắt
các vị Thánh đã đắc quả xuất thế gian phải lễ bái, cúng dường những vị phàm
Tăng thế gian sao? Nghe có lọt tai không chứ?
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Rất lọt tai là khác, nếu như đại vương biết rõ những pháp cao thượng
mà những vị phàm Tăng kia đang thực hành, đang y chỉ, đang bảo lưu, gìn giữ,
tâu đại vương!
- Xin đại đức hãy lật đứng dậy những cái gì khuất lấp ở trong cái đầu
óc u mê của trẫm!
- Đại vương đừng quá tự khiêm, bần tăng sẽ nói đây! Là những vị phàm
Tăng ấy, tâu đại vương, họ hằng có hai mươi pháp hành cao thượng của sa môn.
Ngoài ra, còn hai pháp cao thượng nữa thuộc về phẩm mạo, tăng tướng nhằm hỗ trợ,
nâng đỡ cho hai mươi pháp cao thượng nêu trên. Như vậy, tất cả có hai mươi hai
pháp mà họ đang y chỉ, thực hành, đáng để cho các vị Thánh cư sĩ Tu-đà-huờn ngưỡng
mộ, tôn trọng, lễ bái, cúng dường, tâu đại vương! Hai mươi pháp ấy như sau:
Một là, tâm bi mẫn và sự chơn thật;
Hai là, hỷ hoan trong đời sống thanh cao;
Ba là, đang thực hành pháp;
Bốn là, tứ vô lượng tâm;
Năm là, thu thúc lục căn;
Thứ sáu, thu thúc trong giới bổn pàtimokkha;
Thứ bảy, nhẫn nhục;
Thứ tám, vắng lặng;
Thứ chín, thỏa thích trong chánh pháp;
Thứ mười, thực hành pháp cao thượng;
Mười một, thường thích ở ẩn;
Mười hai, hổ thẹn tội lỗi;
Mười ba, ghê sợ tội lỗi;
Mười bốn, tinh tấn;
Mười lăm, không giải đãi (dễ duôi);
Mười sáu, biết học hỏi giáo pháp;
Mười bảy, biết giảng giải giáo pháp;
Mười tám, thỏa thích trong giới đức;
Mười chín, không tham muốn, không chất chứa, không luyến tiếc;
Hai mươi là, đầy đủ tất cả các điều học.
Và hai pháp cao thượng thuộc phẩm mạo, tăng tướng là:
Thứ nhất, thọ dụng y cà-sa;
Thứ hai, đầu cạo trọc.
Đại vương thấy thế nào, hai mươi hai pháp ấy có cao thượng chăng?
- Thưa, đồng ý là cao thượng, nhưng dẫu sao cũng mới chỉ là pháp cao
thượng chứ không phải là người cao thượng!
- Nhưng mà chư tỳ khưu Tăng có vị đã chứng, đang chứng, và sẽ chứng,
tâu đại vương!
- Xin đại đức tuần tự giảng cho nghe. Thật là đáng khâm phục trí tuệ
biện tài của đại đức nếu như đại đức giảng trôi nạn vấn của trẫm!
- Vâng, đại vương nghĩ thế nào, nếu có vị tỳ khưu thọ trì đầy đủ hai
mươi hai pháp ấy; thực hành không cho hư hỏng hai mươi hai pháp ấy, thực hành
trọn vẹn hai mươi hai pháp ấy; có thể tiến từ bậc hữu học lên bậc vô học, đắc
quả A-la-hán thì vị cư sĩ Thánh quả Tu-đà-huờn kia nên đứng dậy mời chào, lễ
bái, cúng dường các vị tỳ khưu ấy không?
- Rất xứng đáng!
- Tại sao lại xứng đáng?
- Vì dù sao Thánh cư sĩ Tu-đá-huờn đâu có được hai mươi hai pháp ấy? Một
vì tỳ khưu đắc Tu-đá-huờn, quả vị tuy bằng người cư sĩ nhưng sẽ cao thượng hơn
người cư sĩ vì vị tỳ kheo còn có hai mươi hai pháp quý báu ở bên mình, đáng được
trọng nể hơn vậy? Nhưng nếu vị tỳ khưu thọ trì hai mươi hai pháp, có thực hành
nhưng chưa thành tựu đầy đủ hai mươi hai pháp ấy; chưa đạt địa vị hữu học hoặc
vô học thì làm sao vị Thánh cư sĩ lại lễ bái, cúng dường được, đại đức?
- Thưa, vẫn rất xứng đáng lễ bái, cúng dường - vì vị Thánh cư sĩ sẽ
nghĩ rằng: "Dầu sao, các ngài tỳ khưu cũng là môn đệ bậc cao của Đức Phật,
đã thọ trì giới bổn thanh tịnh, đã từng thuyết giới bổn thanh tịnh. Các ngài đều
có khả năng làm những việc mà những cư sĩ bậc Thánh không thể làm được, là có
khả năng cho những người xuất gia thọ sa đi giới và thọ cụ túc giới. Ngoài ra
có vị tỳ khưu, dẫu là phàm Tăng, nhưng, chính họ là người kế thừa, bảo lưu, giữ
gìn hạt giống bồ-đề làm cho Phật giáo được hưng thịnh lâu dài". Tâu đại
vương! Nếu vị Thánh cư sĩ suy nghĩ như thế ở trong tâm, vị ấy có đứng dậy, mời
ngồi, lễ bái, rót nước, dâng vật thực đến cho chư tỳ khưu phàm Tăng chăng?
- Thưa, suy nghĩ ấy rất chánh đáng, rất thuyết phục, xứng đáng đảnh lễ,
cúng dường lắm! Nhưng, ngoài ra, các vị tỳ khưu có thọ trì hai mươi hai pháp ấy,
nhưng khuyết tật hoặc hư hỏng hai mươi hai pháp ấy - thì chắc chắn không xứng
đáng rồi!
- Vẫn rất xứng đáng, tâu đại vương! Vì bậc Thánh cư sĩ sẽ suy nghĩ rằng:
"Họ hư hỏng, khuyết tật nhưng họ vẫn đang trong tăng tướng và phẩm mạo cao
thượng; họ đang đi trên con đường phạm hạnh, họ ăn một bữa, họ thiểu dục, tri
túc; họ thường sống nơi tịch mịch, xa chỗ huyên náo ồn ào, xa chỗ ngũ dục thấp
hèn! ... Còn ta là gì? Ta là cư sĩ áo trắng, dù đắc quả Tu-đà-huờn, nhưng ta vẫn
có gia đình với vợ và con, bạc tiền, của cải, danh vọng, địa vị, nghề nghiệp
nuôi sống. Ta không cắt móng tay, không cạo râu tóc, vẫn trang điểm, vẫn thoa vật
thơm, y phục lành tốt, thọ hưởng ngũ dục, ăn ngon, mặc ấm, giường cao, nhà rộng
v.v... Chỉ nguyên nhân ấy thôi, ta đã phải lễ bái, cúng dường đến các ngài rồi.
Huống hồ các ngài, chư phàm Tăng ấy còn có khả năng dạy giáo pháp, truyền giới
luật cho người tại gia, người xuất gia? Đấy là những việc mà không một Thánh cư
sĩ siêu phàm nào làm được". Đại vương! nếu khi mà vị Thánh cư sĩ suy nghĩ
như thế - thì vị ấy có đứng dậy tiếp rước, mời ngồi với hai tay chấp lại thành
kính không, hở đại vương?
- Ồ! nếu mà suy nghĩ vậy thì quả thật trẫm đã thua xa trí tuệ thấu suốt
ngọn ngành của đại đức rồi!
- Không dám!
- Chắc chắn là vậy! Vì sự gợi ý sáng suốt của đại đức mà trẫm có được
một ví dụ như sau: "Trẫm có một vị hoàng tử, trẫm cho đi học văn chương,
triết học ... nơi một thầy bà-la-môn, là một bậc giáo thọ lớn. Nhờ sự giáo huấn
của thầy bà-la-môn lỗi lạc, con trẫm được nên người, thành tài. Nếu sau này mà
con trẫm có lên vương, thì trẫm cũng phải hằng nhắc nhở con trẫm rằng: Con nên
hằng đến thăm thầy, kính trọng, đảnh lễ thầy, vì nhờ thầy mà bây giờ con đã trở
nên một vị vua xứng đáng". Thưa đại đức! Cũng vậy là vị Thánh cư sĩ kia, mặc
dầu ở địa vị cao hơn, quý báu hơn; nhưng dù sao cũng nhờ các vị tỳ khưu phàm
Tăng, là bậc thầy dạy đạo cho mình, cho mình thọ trì tam quy, ngũ giới, dạy
pháp học, pháp hành ... để mình có cơ hội tiến tu và nhập vào dòng Thánh ngày
hôm nay! Chỉ ngay cái sự tri ân ấy thôi cũng xứng đáng lễ bái, cúng dường rồi,
phải vậy không đại đức?
- Rất là chính xác! Đại vương có thể suy diễn cả những điều mà bần
tăng đang định nói ra, chứng tỏ đại vương có thể đi đến một sự nhất trí về kết
luận của bần tăng như sau: "Không kể phàm, không kể thánh - chỉ ngay cái
phẩm vị tỳ khưu - đã là phẩm vị cao thượng, xứng đáng cho trời và người lễ bái,
tôn trọng, cúng dường".
- Rất đồng ý!
- Cho nên, vị Tu-đà-huờn cư sĩ lễ bái, cúng dường phẩm vị tỳ khưu là
phải lẽ. Cho chí một vị cư sĩ A-la-hán, muốn bảo toàn phẩm hạnh thanh cao của
mình, đắc quả A-la-hán trong ngày nào [*] thì phải xuất gia phẩm vị tỳ khưu
trong ngày ấy. Nếu quá một ngày không gặp đủ số Tăng hội, thì vị cư sĩ A-la-hán
ấy đành phải Niết bàn! Cho hay, phẩm vị tỳ khưu cao thượng, quý báu dường ấy mà
ít người hiểu cho trọn vẹn, thưa đại vương!
[*] Đôi chỗ nói là bảy ngày.
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu hóm hỉnh:
- Gặp được bậc thiện trí thức thông tuệ như đại đức đây, hôm nay, đã
làm cho tâm tư trẫm mát mẻ, rỗng không nghi vấn - dẫu trẫm là vị đế vương sang
cả, quyền uy vô tận; đại đức chỉ là một công dân thôi, trẫm cũng phải cung
kính, đảnh lễ như thường!
- Đại vương quả là bậc thiện trí!
- Không dám!
-ST-