HÀNH TRÌNH CỦA ĐẠI BÀNG

CHA MẸ CÓ THỂ LÀM GÌ ĐỂ ĐỒNG HÀNH CÙNG NHÀ TRƯỜNG TRONG GIÁO DỤC HỌC SINH

Nguyễn Quốc Vương

Trong bối cảnh trường học ngày càng được hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và các loại hình sở hữu, người ta dễ lãng quên vai trò của giáo dục gia đình. “Trăm sự xin nhờ thầy cô”- không còn là câu nói khiêm nhường gửi gắm sự tin tưởng và kì vọng của cha mẹ học sinh đối với giáo viên, nhà trường mà trên thực tế nó thể hiện sự thoái lui của nhiều gia đình trong vai trò giáo dục con cái ở cả phương diện tư duy và hành động cụ thể. Sự thiếu vắng vai trò của cha mẹ đối với sự trưởng thành của con cái là một vấn đề lớn của giáo dục trong thời đại hiện nay. Bài viết này không phải là một tiểu luận nghiên cứu dựa trên các phát hiện mới về học thuật mà nó là những suy ngẫm của một người quan tâm tới giáo dục đồng thời cũng là một ông bố có ba đứa con đang trong độ tuổi đi học. Tôi coi đây là những chia sẻ chân thành để chúng ta cùng suy ngẫm và tìm ra cách giải quyết những vướng mắc cùng nhau trong công cuộc giáo dục chung.

TS Nguyễn Quốc Vương. Nguồn: Internet

1. Vai trò của gia đình đối với sự trưởng thành của học sinh

Gia đình thường được ví như là tế bào của xã hội. Tự thân cách nói đó đã nói lên vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của nó. Hiểu rộng ra ta sẽ thấy xã hội có phát triển lành mạnh hay không sẽ phụ thuộc vào sự khỏe mạnh của các gia đình. Nhìn lại lịch sử ta cũng sẽ thấy, xuyên suốt lịch sử kể từ khi gia đình xuất hiện cho đến nay, cho dù là thời đại nào, gia đình cũng là cái nôi sản sinh ra nhân lực, nuôi dưỡng nhân tài và thiên tài. Những chức năng cơ bản nhất của gia đình thường được kể tới là: chức năng sinh đẻ, chức năng kinh tế, chức năng giáo dục. Trong số các chức năng trên, ở đây xin bàn sâu về chức năng giáo dục.

Khi nhìn vào chức năng này ta sẽ thấy rằng, khi xét giáo dục ở nghĩa rộng thì chính cha mẹ là người thầy đầu tiên của mỗi đứa trẻ. Cha mẹ sẽ là người dạy cho trẻ những kĩ năng sinh hoạt cơ bản nhất như ăn, mặc, ở, ứng xử cùng các kĩ năng giao tiếp xã hội và sinh tồn khác. Trẻ học các tri thức, kĩ năng có liên quan ấy từ sự chỉ dạy trực tiếp của cha mẹ và cả từ sự thẩm thấm gián tiếp trong quá trình sinh sống cùng gia đình. Những hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ, thái độ của cha mẹ vì thế có ảnh hưởng lớn đến hành vi, thái độ, ngôn ngữ của trẻ. Thậm chí khó có thể phủ nhận ảnh hưởng của cha mẹ và bầu không khí văn hóa trong gia đình đối với giá trị quan của trẻ. Những tiêu chuẩn cơ bản để trẻ phán đoán đúng sai, tốt xấu, hay dở, đúng đắn, sai trái…đều khởi nguồn từ gia đình và được nuôi dưỡng từ đây. Đó là lý do vì sao các gia đình thường có nhu cầu tìm hiểu xem con dâu/con rể tương lai được sinh ra và nuôi dưỡng trong gia đình như thế nào. Trong khi ghi lại tiểu sử của các vĩ nhân, những người có cống hiến lớn cho xã hội hay hồ sơ của những tội phạm, những chi chép, thông tin về gia đình là không thể thiếu.

Ở góc độ trải nghiệm cá nhân, khi nhắm mắt thử hình dung lại tuổi thơ và cuộc  sống hiện tại, ta sẽ thấy những thói quen tốt hay xấu mà ta có hầu như đều có nguồn gốc từ những năm tháng sống với gia đình hồi thơ ấu: thói quen đúng giờ, thói quen sạch sẽ ngăn nắp hay bừa bộn, thói quen chào hỏi, thói quen nói lời cảm ơn, thói quen làm việc nhà…

Trong những năm đầu đời (dưới 6 tuổi), vai trò của giáo dục gia đình gần như là tuyệt đối. Dần dần khi trẻ đến trường và mở rộng phạm vi giao tiếp, sinh hoạt ra xung quanh, gia đình trở thành tác nhân hỗ trợ, đồng hành cùng với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục và thúc đẩy “xã hội hóa” trẻ biến trẻ trở thành một thành viên của cộng đồng-xã hội. Giáo dục gia đình cùng với giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội là ba chân kiềng, ba cột trụ không thể thiếu đối với sự trưởng thành của cá nhân trong suốt cả cuộc đời.

Khi trẻ bước vào đời sống trường học, vai trò gia đình mở rộng thêm, không chỉ là giáo dục, củng cố cho trẻ các tri thức đời sống thường ngày, phép tắc cư xử, rèn luyện thói quen, giáo dục lao động… mà gia đình còn hỗ trợ trẻ học các tri thức khoa học một cách có hệ thống thông qua giúp trẻ làm bài tập, học các môn giáo khoa trên lớp, chi trả học phí cho các lớp học thêm và thậm chí là tạo điều kiện, hướng dẫn trẻ học các kĩ năng mềm, các môn năng khiếu…

Ở một khía cạnh khác, nếu gia đình có trục trặc, bất hòa và cha mẹ không ý thức sâu sắc về giáo dục gia đình, điều tất yếu là trẻ sẽ bị tác động tiêu cực. Các nghiên cứu và thực tiễn quan sát đời sống đều cho thấy những học sinh gặp khó khăn trong học tập và thiết lập mối quan hệ với bạn bè ở nhà trường, những học sinh cảm thấy thiếu động lực học tập hoặc không có niềm tin vào cuộc sống thường là các học sinh có hoàn cảnh gia đình đặc biệt như cha mẹ ly thân, ly hôn, cha mẹ là người hành xử xốc nổi, thường sử dụng bạo lực trong đời sống gia đình hoặc nghiện rượu, thiếu quan tâm tới đời sống gia đình…

2. Gia đình và những thách thức trong thế kỉ 21

Gia đình có vai trò, chức năng quan trọng như vậy, tuy nhiên trong bối cảnh xã hội đổi thay mạnh mẽ hiện nay, gia đình đã và đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng. Ta có thể thấy thách thức đầu tiên là sự biến đổi của loại hình gia đình. Nếu như trước kia trong xã hội nông nghiệp truyền thống gia đình chủ yếu là gia đình nhiều thế hệ cùng chung sống thì nay gia đình hạt nhân (bao gồm bố mẹ và con cái) xuất hiện ngày càng nhiều và chiếm xu thế chủ đạo. Kiểu-mô hình gia đình cũng trở nên đa dạng hóa-gia đình đơn thân (chỉ có mẹ hoặc bố) gia tăng. Ở Nhật Bản, số liệu gần đây cho biết tỉ lệ ly hôn (tính theo công thức: số vụ ly hôn/số vụ kết hôn) là trên dưới 35%. Điều đó có nghĩa là cứ 10 đôi yêu nhau, dắt nhau đến nhà thờ hay đền Thờ Thần đạo trao nhẫn cưới và cùng nhau mơ về một mái nhà hạnh phúc thì có 3,5 đôi lặng lẽ gặp nhau ở tòa án để làm thủ tục ly hôn. Tính trên 1000 dân, tỉ lệ ly hôn ở Nhật Bản là 1,7 (2018). Đây là là một tỉ lệ cao đến giật mình làm cả giới truyền thông lẫn giới nghiên cứu ở Nhật Bản sửng sốt.

Ở Việt Nam thì sao? Theo nghiên cứu của tiến sĩ Nguyễn Minh Hòa (Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh) công bố năm 2008 thì tỷ lệ ly hôn tính trên số vụ kết hôn ở Việt Nam là vào khoảng 31-40%[1]. Kết quả này cho thấy tình hình ly hôn ở Việt Nam cũng trầm trọng không kém gì Nhật Bản. Tất nhiên, nghiên cứu trên còn có hạn chế về quy mô, số lượng mẫu và cần các cuộc điều tra định kì quy mô toàn quốc để có được con số chính xác hơn. Tuy nhiên, con số trên cho dù là tham khảo cũng nói lên rằng cuộc sống hôn nhân-gia đình không “hoàn toàn màu hồng”. Trong một lần giao lưu, nói chuyện với bạn đọc của thư viện tỉnh X (tháng 8/2020), một cán bộ phụ trách công tác chính trị ở Sở Giáo dục và Đào tạo trong lúc trò chuyện riêng đã cung cấp cho tôi một con số đáng kinh ngạc. Anh kể rằng trong một lần điều tra khảo sát thực tế ở cơ sở anh phát hiện có một lớp ở trường học nọ có tới 16 em học sinh có bố mẹ sống ly thân hoặc ly hôn trong khi lớp có 40 học sinh. Một con số đáng kinh ngạc và những mảnh đời, những câu chuyện phía sau con số đó có lẽ rất đáng suy nghĩ.

So sánh với Nhật Bản thì tỉ lệ ly hôn của Việt Nam tuy có nhỏ hơn chút ít nhưng nếu ta suy ngẫm thêm khi biết rằng Nhật Bản đã có lịch sử trở thành nước công nhiệp gần 200 năm, đã đạt đến thời kì hoàng kim phát triển thần kì về kinh tế và xã hội đã bước vào thời kì hậu công nghiệp với hiện tượng già hóa dân số thì ta sẽ giật mình. Nước ta vẫn còn chưa trở thành một nước công nghiệp mà gia đình đã bị tác động quá lớn! Điều gì sẽ chờ đợi chúng ta ở phía trước?

Tất nhiên, hôn nhân-hạnh phúc gia đình không phải là chuyện mà ai cũng có thể cứng cỏi, tự tin nói rằng “muốn là được”. Xây đắp-duy trì nó là cả một sự công phu và may mắn. Trong nhiều trường hợp chia tay, ly hôn là giải pháp tốt hơn là tiếp tục duy trì chung sống nhưng dù sao nó cũng gây cho trẻ những tổn thương nhất định và ta sẽ thấy nó ảnh hưởng tới đời sống cá nhân, học hành của trẻ ở trường.

Ngoài ra, ở Việt Nam, do ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, tập tục, định kiến, rất nhiều cặp vợ chồng tuy không ly hôn nhưng lại sống ly thân hoặc sống trong cảnh “cơm không lành canh không ngọt”. Tình trạng này cũng tạo ra ảnh hưởng lớn tới sự trưởng thành và đời sống của trẻ.

Bản thân chức năng giáo dục trong gia đình trong xã hội hiện tại cũng có sự thay đổi lớn. Trong thời đại mà nhà nước chưa có hệ thống giáo dục quốc dân, hiển nhiên gia đình là nơi giáo dục trẻ toàn diện kể cả hình thành năng lực đọc-viết-tính toán và các tri thức văn hóa khác. Những nhà khá giả thì đón gia sư (ông đồ) về nhà dạy cho con. Nhiều anh hùng, hào kiệt nước nhà đã trưởng thành như thế (ví dụ Trần Quốc Tuấn). Những gia đình khác không có điều kiện thì gửi con đến nhà thầy để học. Những gia đình nào mà may mắn có bố là thầy giáo thì bố trở thành thầy daỵ của con. Trong bối cảnh xã hội đó, gia đình thực hiện rất rõ chức năng giáo dục đối với con cái. Tuy nhiên, kể từ thời cận đại khi trường học như là một hệ thống giáo dục quốc dân xuất hiện, trẻ từ 6 tuổi phải đến trường học tập, dần dần chức năng giáo dục của gia đình bị mai một. Nhịp sống công nghiệp với lối làm việc tập trung theo giờ của nền sản xuất lớn ở các trung tâm công nghiệp, nhà máy, công sở, đã cuốn các bậc cha mẹ vào công việc, từ đó dẫn đến một sự thoái lui trong giáo dục gia đình. Các gia đình đã “tự nguyện” và “vui vẻ” trao quyền giáo dục con em mình cho các cơ sở giáo dục. Cha mẹ tập trung phần lớn thời gian cho công việc và dễ có tư duy “trăm sự nhờ thầy cô và nhà trường”. Không hề khó khăn gì cũng có thể tìm được các gia đình sẵn sàng đầu tư đến cả trăm triệu đồng mỗi năm cho con học thêm ở trường và ngoài trường đủ các môn. Tuy nhiên cũng chính ở các gia đình đó lại không hiếm những ông bố, bà mẹ hiếm khi dành thời gian cho con mình trò chuyện, hỏi han, đồng hành cùng con trog các hoạt động chính khoa và ngoại khóa ở trường. Cũng không nhiều cha mẹ dành thời gian đọc sách để nâng cao nền tảng văn hóa của bản thân và hiểu thêm về thế giới của con.

Trên thực tế, là một nước phát triển trước Việt Nam cả trăm năm, Nhật Bản đã từng trải qua hiện tượng tương tự vì vậy ý thức vấn đề của họ về điều này rất rõ. Trong cuốn sách “Sổ tay giáo dục gia đình Nhật Bản” (NXB Phụ nữ Việt Nam-Tủ sách người mẹ tốt, Nguyễn quốc Vương dịch, 2016), ở ngay lời mở đầu, Bộ Giáo dục, Văn hoa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản đã nêu rõ trẻ em mong muốn nhất là “được vui vẻ ở bên gia đình”. Nghĩa là quãng thời gian gia đình sum họp, sinh hoạt cùng nhau rất quan trọng. Tuy nhiên, xã hội hiện đại đã làm cho gia đình “tan rã” từ bên trong. Chúng ta hãy nhìn lại xem trong số chúng ta có bao nhiêu người thường xuyên ăn tối đúng giờ cùng gia đình? Hay chúng ta thường xuyên về muộn ăn cơm một mình hoặc là tiệc tùng cùng bạn bè, đồng nghiệp, đối tác, trong khi các con ăn cơm một mình?

Ở đây, ta hãy cùng tham khảo một cuộc điều tra thú vị của Nhật Bản và suy ngẫm.

Năm 2004 - 2005 Trung tâm giáo dục Phụ nữ Quốc gia có tư cách pháp nhân hành chính độc lập đã tiến hành "Điều tra so sánh quốc tế về giáo dục gia đình" để xem xét về sự biến đổi của gia đình, tình hình giáo dục gia đình. Đối tượng điều tra là các nước: Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Mĩ, Pháp, Thụy Điển. Trong cuộc điều tra này có một nội dung quan trọng là tần suất (số lần) cha mẹ ăn cơm tối cùng gia đình. Kết quả cho thấy người Nhật Bản có tần suất ăn tối cùng gia đình (tính trung bình) thấp nhất (4.4 lần/tuần), người Hàn Quốc đứng thứ hai (4.1 lần/tuần) trong khi đó ở Thái Lan là 6.3 lần/tuần, Mĩ là 5.5 lần/tuần, Pháp là 6.2 lần/tuần và Thụy Điển là 5.4 lần/tuần.

Đọc đến đây ta sẽ giật mình tự hỏi ở Việt Nam tỉ lệ là bao nhiêu? Tôi không tìm thấy kết quả điều tra nào tương tự ở Việt Nam. Tuy nhiên bằng quan sát trực tiếp và suy luận ta sẽ thấy các gia đình không ăn tối cùng nhau đang tăng lên. Ở thành phố là những gia đình có bố mẹ làm lãnh đạo, chủ doanh nghiệp bận rộn với công việc tiếp khách thường phải tiệc tùng với đối tác. Ở nông thôn là các gia đình bố mẹ phải ra thành phố làm ăn xa hoặc phải làm ca kíp trong nhà máy. Trẻ em đang phải ăn cơm tối một mình chiếm một tỉ lệ không phải là nhỏ!

Ngoài ra, sự phổ cập của internet và các phương tiện kĩ thuật số còn đem lại một hệ lụy mới. Chúng ta không lạ gì cảnh ăn cơm xong mỗi người trong gia đình chúi vào một nơi bấm bấm trên điện thoại hoặc dán mắt vào màn hình tivi trong phòng mình. Thời gian, mức độ và chất lượng giao tiếp trong gia đình bị ảnh hưởng. Các cá nhân đã và đang bị “cô độc hóa” ở ngay chính trong gia đình của mình.

Những thách thức trên cùng nhiều thách thức khác đã làm cho chức năng giáo dục của gia đình suy yếu. Khi chức năng giáo dục của gia đình suy yếu, trẻ em sẽ trở thành người bịt thiệt thòi và đương nhiên việc học hành và trưởng thành của các em bị ảnh hướng lớn. Chỉ cần nhìn vào một vài con số được công khai trên báo chí liên quan đến thanh thiếu niên thôi, ta sẽ giật mình. Theo thống kê của Bộ công an (2017) cả nước có tới 222.000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, trong đó 76% người nghiện có độ tuổi dưới 35 tuổi; 60% số người sử dụng ma túy lần đầu ở độ tuổi dưới 25 tuổi, trong đó 8% sử dụng ma túy lần đầu ở độ tuổi dưới 18 tuổi. Cơ quan chức năng cũng cảnh báo “Thành phần, đối tượng tội phạm có xu hướng trẻ hóa, người phạm tội từ 18 đến 30 tuổi chiếm khoảng 70%, dưới 18 tuổi chiếm 8%, tỷ lệ này cũng đang có chiều hướng gia tăng. Đáng chú ý, đa số người phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, con số này chiếm 82%”.

Không chỉ là con số, hàng ngày nhìn vào những khu vực ven đô nơi đang trong cơn sốt đất và câu chuyện thường ngày của người dân là “chục tỉ, trăm tỉ, nghìn tỉ”, những tụ điểm ăn chơi ở phố xá và quan sát xung quanh từ ngay chính gia đình, dòng họ, hàng xóm của mình, chúng ta cũng sẽ phải suy ngẫm.

3. Gia đình có thể làm gì để đồng hành với nhà trường và giáo viên?

Trong bối cảnh những thách thức lớn như trên đang đặt ra, cha mẹ có thể làm gì cho con em mình, có thể làm gì để đồng hành cùng với nhà trường và giáo viên?

Từ trước tới nay, vì nhiều lý do trong đó có sự lạc hậu về lý luận giáo dục và mô hình tổ chức, vận hành trường học, sự tham gia của cha mẹ học sinh vào đời sống trường học rất hạn chế.

Trong trường tuy có hội phụ huynh học sinh và có ban liên lạc tuy nhiên phần lớn phụ huynh chỉ là người tiếp nhận thông tin về tình hình học tập của con mình vào dịp cuối kì, cuối năm hoặc khi học sinh gây ra sự vụ nào đó. Cùng lắm mỗi kì cha mẹ được tham dự một buổi họp phụ huynh có sự tham gia của giáo viên chủ nhiệm. Ở Việt Nam không có nhiều trường mở rộng cửa cho cha mẹ học sinh tham gia vào các sinh hoạt thường xuyên tại trường. Nhược điểm này làm cho cha mẹ học sinh và nhà trường, giáo viên thiếu đi sự kết nối chặt chẽ và sự thấu hiểu và thông cảm lẫn nhau không được hình thành. Hiệu quả giáo dục vì thế cũng yếu đi. Cha mẹ không nắm rõ được tâm tư, nguyện vọng của con cũng như có cơ hội chứng kiến sự trưởng thành, vấp váp của con.

Ở một khía cạnh khác, sự quan tâm không đúng cách của cha mẹ tới con lại dẫn tới “bảo hộ quá mức” biến cha mẹ thành “cha mẹ trực thăng” và làm cho học sinh không có cơ hội tự lập, trưởng thành.

Vậy thì, trong bối cảnh hiện nay, nhà trường và phụ huynh có thể làm gì cùng nhau?

Về mặt tổ chức, các trường có thể học theo mô hình PTA (Hội giáo viên và phụ huynh) của Nhật Bản, Mĩ… để giáo viên và phụ huynh có thời gian, cơ hội hoạt động thường xuyên cùng nhau. Các hoạt động, sinh hoạt của PTA là thường xuyên, liên tục chứ không phải là các hoạt động có tính chất thời vụ hoặc mang tính chất là động thái xử lí sự cố liên quan tới học sinh, hỏi thăm, tặng quà giáo viên vào các dịp lễ, tết như vẫn thường thấy ở Việt Nam. PTA là nơi mà ở đó giáo viên và phụ huynh có thể học hỏi lẫn nhau, cùng nâng cao nhận thức của bản thân, từ đó cùng hành động, cống hiến cho địa phương, nhà trường và sự trưởng thành của học sinh. Trong hoàn cảnh của Việt Nam cũng có thể cải tiến cách thức tổ chức hội phụ huynh học sinh của từng lớp, của trường để có thêm sự tham gia của giáo viên bộ môn và làm cho hoạt động của hội toàn diện, thường xuyên, liên tục hơn.

Nhà trường cần vận động và tạo điều kiện để phụ huynh tham gia vào các hoạt động chính khóa và ngoại khóa có sự tham gia của học sinh như: Hội thao, dã ngoại, làm tủ sách lớp học, thư viện trường học… Ở Nhật Bản các hoạt động này thu hút rất đông đảo phụ huynh tham gia. Trong ngày hội thao (ngày hội thể dục thể thao diễn ra vào tháng 10 hàng năm), tất cả học sinh trong trường đều tham gia và phụ huynh cũng tham gia trợ giúp, phục vụ hậu cần, cổ vũ… thậm chí là thi đấu cùng học sinh thay vì chỉ có các đội tuyển hay những cá nhân xuất sắc tham gia thi đấu thay mặt cho lớp như cách làm lâu nay của chúng ta. Ở Nhật Bản, nhà trường, từ mầm non trở đi cũng thường tổ chức các buổi dã ngoại hay sinh hoạt ngoại khóa có sự tham gia của các phụ huynh. Mục đích của những hoạt động như vậy là giúp phụ huynh kết nối với nhà trường, quan sát con và trao đổi cùng với nhà trường, giáo viên về việc giáo dục học sinh. Thông qua các hoạt động như vậy phụ huynh và nhà trường hiểu nhau hơn, chia sẻ triết lý phương châm, mục tiêu giáo dục và thảo luận cùng nhau tìm cách giải quyết các vấn đề còn vướng mắc.

Những năm gần đây, văn hóa đọc được quan tâm và nhiều hoạt động khuyến đọc trong nhà trường được tiến hành rộng rãi. Năng lực đọc là năng lực cơ bản nhất của mỗi cá nhân trưởng thành đồng thời cũng là năng lực quan trọng số một của việc học. Những học sinh học kém thường cũng có năng lực đọc kém. Để nâng cao chất lượng giáo dục, việc nâng cấp, cải tiến thư viện trường học để nó trở thành nơi hấp dẫn, hoạt động hiệu quả là cấp thiết. Để biến sách trở thành vật gần gũi thân thiết với học sinh, các tủ sách lớp học cũng trở nên cần thiết. Cha mẹ học sinh hoàn toàn có thể tham gia cùng nhà trường trong những công việc này bằng những việc làm cụ thể như: tặng sách, quên góp sách cho nhà trường, xây dựng các tủ sách trong lớp con học cùng với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn. Ở nhà phụ huynh cũng có thể xây dựng tủ sách gia đình, đọc sách cùng con và khuyến khích con đọc sách. Ở nước Nhật, phụ huynh-đa số là phụ nữ làm nội trợ, đã lãnh đạo và tổ chức phong trào lập thư viện và tủ sách trong nhiều thập kỉ từ những năm 60 của thế kỉ trước góp phần tạo ra môi trường văn hóa đáng nể ở trường học và xã hội Nhật Bản.

Nhà trường cùng cha mẹ học sinh cũng có thể tổ chức các diễn đàn thường xuyên (cả online và offline) để thảo luận, trao đổi, học hỏi lẫn nhau. Các buổi hội thảo, nói chuyện chuyên đề, thảo luận… này có thể tổ chức định kì theo tháng, theo quý và theo năm. Mỗi buổi có thể thiết lập một chủ đề riêng để phụ huynh và giáo viên trao đổi, thảo luận ví dụ như “hướng nghiệp”, “hướng dẫn, trợ giúp học sinh học tập” “phòng chống bắt nạt học đường”, “phòng chống bạo hành”… Nhà trường-hội cha mẹ học sinh cũng có thể mời các chuyên gia ở bên ngoài trường tham gia.

Cuối cùng, cha mẹ và nhà trường có thể đồng hành bên nhau, hợp tác với nhau để tư vấn hướng nghiệp cho học sinh. Rất nhiều phụ huynh hiện nay lo lắng chuyện con mình “học giỏi” hay không. Điều đó là dễ hiểu. Tuy nhiên “giỏi” cần phải được hiểu theo nghĩa rộng nhất và sự tiến bộ của mối cá nhân học sinh cần phải được nhìn nhận bằng lăng kính hợp lý. Mỗi cá nhân đều có giá trị tồn tại riêng và đều có tiềm năng để phát triển vì vậy việc so sánh thành tích học tập giữa các học sinh để rồi cảm thấy tuyệt vọng hoặc lo lắng thái quá là không cần thiết. Trước kia, trong xã hội với nền kinh tế giản đơn, học giỏi với điểm số cao, thi đỗ và tốt nghiệp với tấm bằng có thành tích tốt là con đường duy nhất để cá nhân học sinh “lập thân xuất thế”. Tuy nhiên, hiện tại, nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần với các hoạt động kinh tế đa dạng, phong phú đã tạo ra vô vàn cơ hội khác nhau cho học sinh sau khi rời trường phổ thông hoặc cao đẳng, đại học. Năng lực học tập trong trường được đánh giá bằng điểm số là một tham khảo quan trọng nhưng không phải là duy nhất. Phụ huynh cần đồng hành với nhà trường để giúp đỡ con tiến bộ so với chính bản thân mình trong học tập toàn diện và rèn luyện thể chất, tinh thần ở trường. Nếu học sinh có ý chí, khả năng tập trung tốt và có thái độ cầu thị, học hỏi liên tục, cơ hội để học sinh đó thành công trong đường đời là rất lớn. Việc học là một quá trình lâu dài, liên tục, kéo dài trong suốt cả cuộc đời. Bồi dưỡng cho học sinh thái độ cầu thị, ham học, luôn có nhu cầu tiến bộ và tìm ra được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân mình từ đó lựa chọn nghề nghiệp phù hợp là việc quan trọng. Trong quá trình đó, sự tham gia, đồng hành, hợp tác của phụ huynh là không thể thiếu. Ngoài ra, những phụ huynh có chuyên môn cao, nghiên cứu sâu về các ngành nghề hoặc là chuyên gia, người lành nghề, người có hiểu biết sâu sắc về nghề hoàn toàn có thể tham gia là diễn giả, người chia sẻ cho học sinh trong nhà trường về nghề đó giúp học sinh hình dung ra con đường trở thành người làm nghề và gợi lên trong các em cảm hứng, động lực…

Tóm lại, giáo dục là công việc không hề dễ dàng. Giáo dục nhà trường tuy quan trọng nhưng không phải là yếu tố duy nhất tạo ra sự trưởng thành ở học sinh. Giáo dục gia đình và môi trường xã hội cũng đóng góp phần quan trọng và sự trưởng thành đó. Vì vậy, nhà trường và cha mẹ học sinh cần phải có nhận thức sâu sắc về mối quan hệ này, từ đó có những hoạt động cụ thể và hiệu quả để hợp tác đem lại lợi ích lớn nhất cho học sinh. Đối với phụ huynh, trong giáo dục gia đình và phối hợp với nhà trường, sự chân thành và nỗ lực cải thiện, làm mới bản thân, nỗ lực điều chỉnh những bất hợp lý trong sinh hoạt gia đình để tạo ra môi trường gia đình hạnh phúc, yên ấm để học sinh lấy làm điểm tựa trong quá trình học tập sẽ là tiền đề đầu tiên và cũng là tiền đề khó khăn nhất. Cũng chính bởi khó khăn mà ý nghĩa và tác dụng có được từ nó sẽ vô cùng lớn. Đấy là thử thách đầu tiên và lớn nhất mà phụ huynh phải giác ngộ và nỗ lực vượt qua.

 

 

 

 

Được tạo bởi Blogger.