SỰ TÍCH ĐỨC CHUẨN ĐỀ
Đức Chuẩn Đề vốn là Thất Cu Chi Phật Mẫu.
Ngài thường thuyết Kinh Đà La Ni, nguyện cầu cho tất
cả trong Thế gian và Xuất thế gian đều thành tựu những sự nghiệp tu tập.
Vì tấm lòng từ bi vô hạn của Ngài với quần sanh
như mẹ thương yêu đám con khờ, nên kêu là “Phật mẫu”.
Ngài thường diễn nói rằng: Chơn như thiệt tướng và
tánh chơn thường của tất cả chúng sanh xưa nay đều sẳn có trong bản giác chư Phật
vậy, nên trong đó gồm đủ các đức dụng khắp cõi Hà sa.
Nhưng ngặt vì cứ hủy báng chánh pháp, chẳng tin lời
của Phật, tự mình tổn cho mình, nên phải trầm luân đọa lạc, dẫu cho ngàn vị Phật
ra đời cũng khó mà cứu chữa đặng.
Ngài thấy vậy nên mới sanh lòng từ mẫn, lập pháp
môn phương tiện mà điều phục các việc trần cấu của người sơ cơ nhập đạo, và muốn
đồng với Chư Phật một nguồn giác, để dứt chỗ “vọng” mà quy về nơi “chơn”.
Nay xin tuyên dương bửu tượng của Đức Chuẩn Đề ra
đây, đặng cho những người mộ đạo chiêm ngưỡng và lễ bái, thì được phước vô lượng
vô biên.
Bửu tượng của Ngài có nhiều vẻ quang minh tốt đẹp,
đều chiếu diệu cả mình, còn thân tướng thì sắc vàng mà có lằn điển quang trắng.
Ngài chỉ ngồi kiết già, trên thì đắp y, còn dưới
thì mặc xiêm đều trọn một sắc trắng mà có bông, lại có đeo chuỗi anh lạc và
trên ngực có hiện ra một chữ “vạn”.
Còn hai cườm tay có đeo hai chiếc bằng ốc trắng,
hai bên cánh tay trỏ có xuyến thất châu coi rất xinh lịch, lại hai trái tai có
được ngọc bửu đương và trong các ngón tay đều có đeo vòng nhỏ.
Trên đầu thì đội mão Hoa quang, trên mão ấy có hóa
hiện ra 5 vị Như Lai.
Nơi mặt Ngài có 3 con mắt, trong mỗi con mắt ấy
coi rất sắc xảo, dường như chăm chỉ ngó các chúng sanh mà có ý sanh lòng từ mẫn
vậy.
Toàn thân của Ngài có mười tám cánh tay, mỗi bên
chín cánh.
Hai bàn tay ở trên hết thì kiết ấn Chuẩn đề, như
tướng đương lúc thuyết pháp.
Tay trái thứ hai cầm lá phướn như ý, còn tay mặt cầm
cái thí vô úy.
Tay trái thứ ba cầm một bông sen đỏ, còn tay mặt cầm
cây gươm.
Tay trái thứ tư cầm một bình nước, còn tay mặt cầm
một xâu chuỗi Ni ma bửu châu.
Tay trái thứ năm cầm một sợi dây Kim cang, còn tay
mặt cầm một trái la ca quả.
Tay trái thứ sáu cầm một cái bánh xa luân, còn tay
mặt cầm một cái búa.
Tay trái thứ bảy cầm cái pháp loa, còn tay mặt cầm
cái thiết câu.
Tay trái thứ tám cầm một cái bình như ý, còn tay mặt
cầm một cái chày kim cang.
Tay trái thứ chín cầm một cuốn Kinh Bát nhã Ba La
Mật, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi dài.
Ngài ngồi trên tòa sen, dưới có hai vị Long Vương ủng
hộ. Đó là bửu tượng của Ngài đại lược như vậy, nếu ai có lòng trì niệm, muốn
chiêm vọng và quán tưởng, thì vọng niệm chẳng sanh mà chơn tâm hiển hiện.
Nếu công phu thuần thục lâu rồi, chẳng có chút gì
gián đoạn, thì sẽ đặng phước quả rất rộng lớn, có ngày đạt tới nơi cực quả bồ đề
nữa.
Song đương thời kỳ mạt pháp, những người sơ cơ
hành giả, tam nghiệp chưa thuần, chẳng hay làm theo phương pháp chư quán, nên
tâm sanh biếng nhác, thì tự nhiên phải mất hẳn hột giống bồ đề.
Nếu ai nương theo Kinh Pháp của Ngài mà thọ trì,
thì mau đặng chỗ linh nghiệm.
Đương lúc quán tưởng thần chú của Ngài, thì cần nhứt
phải tương phù, thì nẻo sanh tử nào mà ra chẳng khỏi, chỗ Niết bàn nào mà chứng
chẳng đặng!
Vậy nên phải ân cần chuyên chú mà tu tập theo yếu
pháp của Ngài, thì sẽ thấy rõ các việc hiệu quả.
Nghĩ coi, từ đời vô thủy trải vô lượng số kiếp nhẫn
nay, chúng sanh chỉ bị màn vô minh che lấp, mắt chánh nhãn phải lu mờ, rồi vọng
tâm phấn khởi, thường tạo nghiệp đa đoan, cho nên phải bị luân hồi trong vòng Lục
đạo và đọa lạc vào nẻo Tam đồ.
Ai là người có chí nguyện muốn ra khỏi cái nạn khổ
ấy, đặng mau đến chỗ diệu quả vô thượng bồ đề, thì phải nhứt tâm chơn thật đến
trước Thánh tượng, mà đứng cho ngay và chấp tay đảnh lễ, chí tâm quán tưởng tôn
dung của Ngài và duyên niệm thập phương Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo, thì thể của
ta như hư không, chẳng có chỗ nào là chỗ chướng ngại, và tánh lại thường trụ,
đoạn trừ đặng các tướng qua lại động tịnh. Hễ có cảm thì có ứng là lẽ tất nhiên
như vậy.
Bởi vì Ngài thường mẫn niệm các chúng sanh trong đời
vị lai, phước căn thiển bạc và ác nghiệp dãy đầy, nên mới lập ra một pháp môn
quán tưởng có chín chữ Phạm là: “Chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha”.
Nếu vẽ chín chữ ấy thành như cái mặt “Viên minh bố
liệc phạm thơ đồ” rồi mỗi đêm thường quán tưởng, thì các tội đều tiêu diệt và sẽ
được tăng ít phước điền nữa.
Chí như người tại gia hay là người xuất gia mà tu
tập theo hạnh chơn ngôn nói trên đây, và tụng trì chú Đà la ni cho đủ chín mươi
muôn biến, dẫu cho vô lượng kiếp đến nay có tạo những tội thập ác, ngũ nghịch
và tứ trọng, phải mắc vào ngũ vô gián tội đi nữa, thì cũng thảy đều tiêu diệt tất
cả.
Chú Đà la ni chép y dưới đây:
Nam mô Phật đà da, Nam mô đạt mạ da, Nam mô tăng
già da. Án tất đế, hộ rô rô, tất đô rô chỉ rị ba, kiết rị bà, tất đạt rị bố rô
rị ta bà ha.
Nếu trì tụng được như vậy, thì đến ngày thọ chung
đặng thác sanh vào chỗ thiện duyên và hưởng nhiều sự khoái lạc nữa.
Nói về phần hiệu quả của những người tại gia, tu
theo pháp Tam quy ngũ giới, một lòng kiên cố, chẳng có chút nào thối chuyển, mà
lại có lòng xu hướng và trì tụng chú Đà la ni, thì kiếp sau sẽ sanh về cõi Trời,
hưởng phước đức đời đời, hay là sanh trong cõi nhơn gian, hoặc làm vị Quốc
vương, hoặc làm bực Công hầu..thường gần gũi với các vị Thánh hiền mà chư thiên
hay ái kỉnh, thường hết lòng ủng hộ gia trì, chẳng khi nào bị đọa vào đường ác
thú.
Còn nếu những người ấy ra kinh doanh trong trường
thế cuộc, thì không có tai hại gì, cho đến nghi dung cũng đoan chánh, lời nói rất
ôn hòa, tâm không phiền não, an nhàn tự tại, lui tới thung dung, hưởng phước một
đời, rất nên mỹ mãn.
Nói về phần hiệu quả của các vị xuất gia, nếu giới
cấm đã hoàn toàn, công hạnh đã thuần thục, mỗi ngày ba thời tụng niệm, rồi y
theo giáo pháp của Đức Chuẩn Đề mà tu hành, và chí nguyện cầu đến chỗ tất địa
Xuất thế gian của Chư Phật, thì tự nhiên tâm không sất ngại, tánh lại viên
minh, một màu thanh tịnh, không còn trước nhiễm nơi cảnh hữu vi, chỉ thấy định
huệ hiện tiền.
Chừng đó sẽ chứng đặng quả địa “Ba La Mật” rất
viên mãn, rồi có ngày sẽ chứng đến quả “Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề”.
Thoảng như quán tưởng thấu đáo tới chỗ thâm lý,
thì đương lúc hiện tại cũng chứng được Phật quả Đại thừa.
Có phải là pháp môn của Đức Chuẩn Đề rất vi diệu
và rất thuần túy hay không?
Tuy chơn ngôn từ ngữ như vậy, chớ toàn thị là vô
tướng pháp giới, mà lục độ và vạn hạnh cũng là từ trong pháp giới lưu bố ra.
Nói tóm lại, Đức Chuẩn Đề Phật Mẫu là một vị Pháp
thân Bồ tát ở cõi trang nghiêm thế giới, không có giáng sanh nơi cõi nhơn gian.
Song giáo Pháp của Ngài rất nên bí mật mà nay được rõ biết đây, là nhờ Đức
Thích Ca giải rõ chỗ lý địa và hình tướng, nên người sau mới biết công đức và họa
bửu tượng mà thờ như vậy.