SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
Ai cũng đều biết Đức Phật A Di Đà là giáo chủ cõi
Tây phương Cực Lạc; chí tâm niệm hồng danh của Ngài sẽ giúp sinh vô lượng công
đức và được vãng sinh về cõi Cực Lạc dựa theo 48 lời đại nguyện của Ngài. Nhưng
ít ai biết được sự tích của Đức Phật A Di Đà như thế nào?
Bởi Đức Phật A Di Đà không phải là nhân vật lịch sử
và có mặt tại cõi Ta Bà của chúng ta. Tuy nhiên qua lời giới thiệu của Đức Bổn
Sư trong kinh Bi Hoa, chúng ta được biết rằng tiền thân của Đức Phật A Di Đà là
vua Chuyển Luân Thánh Vương, tên Vô Tránh Niệm với muôn vàn công đức và lòng đại
bi thương yêu tất cả chúng sinh. Ngài đã mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sinh
ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
Kinh ghi lại rằng:
“Về khoảng
hằng sa kiếp trước, có một đại kiếp gọi là Thiện Trì. Khi ấy tại cõi Tản Đề Lam
thế giới có vua Chuyển Luân Thánh Vương, tên Vô Tránh Niệm, thống lãnh cả bốn xứ
thiên hạ:
Một là Đông thắng thần chân;
Hai là Nam thiệm bộ châu;
Ba là Tây ngưu hóa châu;
Bốn là Bắc cô lô châu;
Tài đức vẹn toàn, đượm nhuần khắp bốn phương, nên
hết thảy nhân dân ai nấy cũng sẵn lòng ái kính.
Vua có một vị đại thần tên là Bảo Hải, con dòng Phạm
Chí, rất tinh thông về nghề xem thiên văn. Bảo Hải có một người con trai tướng
tốt lạ thường, từ dưới chân lên đến trên đầu đều có ba mươi hai dấu tốt. Khi
người con này sinh ra, được các hàng khách tôn quý đem nhiều đồ lễ vật đến dưng
cho, nhơn vậy mà đặt tên là Bảo Tạng.
Lúc khôn lớn, thì Bảo Tạng xem biết việc đời là thống
khổ thân mạng lại vô thường, tự nhiên sinh lòng chán ngán, bỏ cuộc vinh hoa, liền
xuất gia tu hành. Chẳng bao lâu đã thành Phật, hiệu là Bảo Tạng Như Lai, đủ các
đạo Pháp nhiệm mầu, thần thông rộng lớn. Khi thành Phật rồi, thì Ngài dạo khắp
các nơi mà hóa độ chúng sinh, có nhiều hàng đệ tử đã chứng đặng quả Thanh Văn,
Duyên Giác và Bồ Tát, nên nhơn dân ai nấy cũng sẵn lòng hoan nghinh.
Một ngày kia, vua Vô Tránh Niệm nghe Phật Bảo Tạng
cùng đệ tử đến giảng Đạo tại vườn Diêm Phù, gần bên thành, thì tự nghĩ rằng:
“Nay Ta muốn đến chỗ Phật, đặng xem coi giảng Đạo lý gì mà thiên hạ tín ngưỡng
đông như thế!”
Nghĩ như vậy rồi, vua cùng các vị vương tử, đại thần
và quyến thuộc bèn đến vườn Diêm phù lễ Phật vừa xong, liền đi chung quanh ba
vòng, rồi ngồi bên Ngài mà nghe Pháp.
– Vua Vô Tránh Niệm xem thấy Đức Bảo Tạng Như Lai
khoanh chân ngồi trên bảo tọa có hình con sư tử, rất bực trang nghiêm, đủ tướng
tốt đẹp, chung quanh thân Ngài có ánh sáng nhiều sắc chói lòa.
Trong Pháp hội gồm những người đã xuất gia làm đệ
tử của Phật cạo tóc đắp y, những hàng vương tử đại thần mặc đồ anh lạc, cung
nga mỹ nữ dung mạo tốt xinh, nào là sĩ, nông, công, thương, áo xiêm chỉnh đốn,
kẻ thì chấp tay ngồi im lặng, người thì quỳ gối thưa hỏi, xem bộ ai nấy cũng
chăm ngó Phật mà nghe Pháp cả.
– Vua nghe đức Bảo Tạng Như Lai diễn đủ các Pháp,
thì lòng đã mở thông, căn thân thanh tịnh, rõ đường giải khổ, biết sự làm lành,
liền quỳ xuống chấp tay mà thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi muốn sắm đủ những
đồ ăn uống: áo chăn, mền nệm và thuốc men, đặng dưng cúng cho Ngài và đại chúng
luôn trọn ba tháng ở đây mà giảng đạo, xin Ngài từ bi ai nạp”.
Vua Vô Tránh Niệm thấy Phật nhận lời, liền trở về
truyền lịnh sắm sửa đủ mọi lễ, cứ đúng buổi mà dưng cúng không hề trễ nãi.
Vua lại khuyên bảo các vị vương tử, đại thần, quyến
thuộc và nhơn dân rằng: “Các ngươi có biết hay không? Nay Trẫm đã mở lòng bố
thí, kính thỉnh Đức Bảo Tạng Như Lai và đại chúng đến mà cúng dường trọn ba
tháng. Những đồ báu trọng ngon đẹp của Trẫm thọ dụng bấy lâu nay đều đem dâng
cúng tất cả. Các ngươi cũng thể theo ý Trẫm xả bớt huyễn tài mà cúng Phật Tăng
đặng cầu phước báu”.
Cả thảy đều vâng lời vua khuyên, hết lòng sắm sửa
lễ vật mà dưng cúng Phật.
Có một hôm, quan Đại thần Bảo Hải, là phụ thân Đức
Bảo Tạng Như Lai, nằm chiêm bao thấy vua Vô Tránh Niệm làm sự bố thí thì lớn,
mà việc cầu phước báu thì nhỏ. Sự ao ước của vua còn thuộc về phước hữu lậu
trong cõi nhơn thiên, chưa thoát ra khỏi luân hồi sinh tử.
Vậy nên quan Đại thần chẳng đặng vui lòng, vì ý của
ông muốn làm sao cho vua phát tâm cầu quả Bồ đề, tu thành Phật đạo mà cứu vớt mọi
loài chúng sinh, chớ không muốn cho vua cầu phước báu nhỏ nhen như hàng tiểu
dân vậy.
Quan Đại thần suy nghĩ như vậy, bèn đến chỗ Phật Bảo
Tạng Như Lai tỏ điềm chiêm bao ấy, và tâu với vua Vô Tránh Niệm rằng: Ngày nay Đại Vương cúng dường Phật Tăng, dùng
phước duyên đó mà cầu nguyện những việc chi, xin cho ngu thần rõ.
Nếu Đại Vương muốn cầu sinh về cõi Trời mà làm một
vị thiên tử hưởng sự phước thọ.
Muốn cầu sinh về cõi Nhơn gian làm vua Chuyển
Luân, thống lãnh bốn châu thiên hạ như ngày nay vậy, thì cũng còn ở trong khổ ải,
chớ chưa ra khỏi vòng sinh tử luân hồi.
Thưa Đại Vương! Hai sự phước báu tôi đã trần tấu
đó đều là tướng vô định, đều là sự vô thường, thí như cơn gió thổi, dường tợ
đám mây tan, có chắc chắn lâu dài chi đâu mà phải cầu nguyện!
Nếu sinh về cõi Trời, khi hưởng sự khoái lạc mà có
tạo ác nghiệp, thì cũng phải đọa vào địa ngục, đặng chịu khổ.
Còn như sinh về cõi nhơn gian, thì lại chịu mọi sự
khổ não phần thì oán cừu gặp gỡ, phần thì ân ái chia lìa cái khổ trạng ấy không
thể kể xiết.
Vì Đại Vương nhờ nhân duyên tu phước đời trước,
nên mới hưởng đặng sự tôn vinh như vầy. Nếu nay Đại vương giữ gìn giới luật,
thì sẽ đặng phước báu lớn hơn nữa: còn như tu học chánh pháp, thì sẽ thành chưởng
trí.Vậy xin Đại vương nên phát tâm cầu đạo Vô Thượng Bồ Đề, chớ đừng cầu nguyện
những việc phước nhỏ nhen như hạng người thường kia vậy.
Phật thì hiệu là: A Di Đà Như Lai sống lâu vô
cùng, tiếp dẫn vô lượng chúng sinh trong các thế giới về đó, rồi giáo hóa cho
thành Phật đạo tất cả.
Vua Vô Tránh Niệm nghe quan Đại thần Bảo Hải khuyến
thỉnh như thế, thì tâm lượng tự nhiên mở rộng, liền đáp rằng: “ Trẫm chẳng cầu
những việc như khanh nói đó đâu! Trẫm muốn trải khắp trong đường sinh tử, làm sự
bố thí, trì giới, hầu nghe những pháp mầu nhiệm, tu hạnh Bồ Tát và cứu vớt
chúng sinh, do nhân duyên ấy mà phát tâm Bồ Đề”.
Vua Vô Tránh Niệm nói như vậy rồi, bèn đi với quan
Đại thần Bảo Hải đến chỗ Đức Bảo Tạng Như Lai. Thấy Ngài đương nhập định, lại
dùng phép thần thông biến hóa và phóng hào quang sáng suốt, hiện cả mười phương
thế giới của Chư Phật ra trước mặt cho chúng hội xem:
Hoặc có cõi Phật đã Niết Bàn rồi, hoặc có cõi Phật
đương Niết Bàn, hoặc có các cõi vị Bồ Tát mới ngồi nơi đạo tràng dưới cây Bồ đề,
đương hàng phục chúng ma, hoặc có cõi Phật mới thành đạo và mới nói Pháp, hoặc
có cõi Phật thành đạo đã lâu, đương còn nói Pháp, hoặc có thế giới toàn là các
bực Bồ tát, hoặc có thế giới toàn là những hàng Thinh Văn và Duyên Giác, hoặc
có thế giới không có Phật, Bồ Tát, Thinh Văn và Duyên Giác chi hết, hoặc có thế
giới đủ năm món ác trược, hoặc có thế giới đủ các thứ trang nghiêm, hoặc có thế
giới hèn dơ nhớp, hoặc có thế giới tốt đẹp lạ thường, hoặc có thế giới mà nhơn
dân sống lâu vô cùng, hoặc có thế giới mà nhơn dân thọ mạng ngắn ngủi, hoặc có
thế giới thường bị tai nạn thủy hỏa, hoặc có thế giới hằng bị tai nạn gió bão,
hoặc có thế giới gần thành tựu, hoặc có thế giới đã thành tựu rồi.
Ngài ở cõi Cực Lạc Thế Giới bên Tây Phương, đương
giảng dạy các Pháp Đại Thừa và hằng tiếp dẫn chúng sinh đem về cõi ấy.
Đại thần Bảo Hải thấy vậy, bèn tâu với vua Vô
Tránh Niệm rằng: “Nay Đại vương nhờ sức oai thần của Đức Như Lai mà đặng thấy
các thế giới, vậy Đại vương phát Bồ đề tâm muốn cầu lấy thế giới nào”
Vua chấp tay mà thưa với Đức Bảo Tạng Như Lai rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn! Chẳng biết các vị Bồ Tát tu hạnh gì mà chiếm đặng cõi Phật tốt
đẹp trang nghiêm, tu nghiệp gì mà chiếm đặng thế giới xấu xa ác trược. Do nghiệp
gì mà đặng thọ mạng lâu dài, tạo nghiệp gì mà thọ số ngắn ngủi? Xin Ngài chỉ dạy
cho tôi biết mà tu học”.
Đức Bảo Tạng Như Lai nói rằng: “Vì bởi các vị Bồ
Tát có sức thệ nguyện, muốn ở cõi thế giới thanh tịnh, không có các điều ác trược,
nên sau khi thành đạo được về ở cõi ấy rất trang nghiêm. Còn các vị Bồ Tát nào
do sức thệ nguyện, muốn ở cõi thế giới ngũ trược đủ sự phiền não, nên sau khi
thành đạo về ở cõi ấy”.
Vua Vô Tránh Niệm lễ Phật rồi lui trở về trong
cung, một mình ngồi im lìm mà suy nghĩ đến sự thệ nguyện của mình, mong cầu cho
đặng cõi cực kỳ tốt đẹp, đặng tiếp dẫn chúng sinh.
Suy nghĩ rồi vua bèn trở lại lễ Phật mà thưa rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn! Vì tôi muốn chứng đạo Bồ đề, nên đem công đức cúng dường
Ngài và đại chúng trong ba tháng mà cầu đặng cõi Phật rất thanh tịnh trang
nghiêm.
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe vua Vô Tránh Niệm nguyện
mấy lời ấy rồi khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Đại vương phát nguyện sâu lớn,
muốn cõi thanh tịnh. Kìa Đại vương hãy xem qua hướng Tây, cách trăm ngàn muôn ức
cõi Phật có một thế giới gọi là Tôn Thiện Vô Cấu, giáo chủ cõi ấy hiệu là Tôn
Âm Vương Như Lai, hiện nay đương vì các bực Bồ Tát mà giảng dạy Pháp Đại thừa,
giáo hóa các người Thượng căn, chứ không diễn thuyết mấy Pháp quyền tiểu”.
Trong cõi ấy cũng không có chúng sinh căn trí Tiểu
thừa và cũng không có một người nữ nhân. Nhưng y báo (y báo là cảnh vật) và
chánh báo (chánh báo là căn thân) của Phật Tôn Âm Vương Như Lai thiệt thanh tịnh
trang nghiêm, rất xứng hiệp với chỗ cầu nguyện của Đại vương đó! Vì Đại vương
có thệ nguyện muôn cõi thanh tịnh, nên nay Ta đổi hiệu Đại vương là Vô Lượng
Thanh Tịnh.
Khi Vô Lượng Thanh Tịnh mãn một trung kiếp, thì Đức
Phật Tôn Âm Vương Như Lai nhập Niết Bàn, Chánh Pháp truyền bá đặng mười trung
kiếp. Đến khi diệt rồi, trải qua sáu mươi trung kiếp, thì cõi Tôn Thiện Vô Cấu
đổi tên lại là: Di Lâu Quang Minh có Đức Phật, hiệu là Bất Khả Tư Nghị Công Đức
Vương Như Lai, ứng hiện ra đời mà hóa đạo chúng sinh. Sau khi Đức Phật ấy nhập
Niết Bàn rồi, trải vô số hằng sa kiếp và vô lượng Phật diệt độ, thì cõi Di lâu
Quang Minh đổi tên lại là: An lạc. Đến thời kỳ Vô Lượng Thanh Tịnh chứng quả về
cõi đó mà thành Phật thì hiệu là: A Di Đà Như Lai sống lâu vô cùng, tiếp dẫn vô
lượng chúng sinh trong các thế giới về đó, rồi giáo hóa cho thành Phật đạo tất
cả.
Vua Vô Tránh Niệm nghe Phật Bảo Tạng Như Lai thọ
ký như vậy liền thưa rằng: “Bạch Đức thế Tôn! Nếu lòng thệ nguyện của tôi quả đặng
y như lời thọ ký của Ngài, thì tôi kỉnh lễ xin nhờ Ngài dùng phép thần thông
làm cho các Đức Phật ở trong hằng sa thế giới cũng thọ ký cho tôi như Ngài nữa”.
Vua Vô Tránh Niệm thưa rồi, đương cúi đầu thi lễ,
tức thì mười phương thế giới thảy đều vang động. Vua ở trong pháp Hội nghe Chư
Phật đều thọ ký cũng như lời Đức Phật Bảo Tạng đã nói trên đó, thì rất đổi vui
mừng, liền chấp tay đảnh lễ, rồi ngồi nghe Phật Bảo Tạng thọ ký cho các vị Bồ
Tát khác.
Từ đó về sau, vua Vô Tránh Niệm mạng chung thọ
sinh ra các đời khác, kiếp nào cũng giữ lời bổn nguyện, tu hạnh Bồ Tát cứu độ
chúng sinh, trải vô lượng kiếp quả mãn công viên hiện thành Chánh Giác, đến nay
đã mười đại kiếp rồi, Ngài ở cõi Cực Lạc Thế Giới bên Tây Phương, đương giảng dạy
các Pháp Đại Thừa và hằng tiếp dẫn chúng sinh đem về cõi ấy.
Trích
Sự tích Đức Phật A Di Đà và bảy vị bồ tát