HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG - TRẦN QUỐC TUẤN
Hưng Đạo Đại
Vương là ai?
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1232? - 1300)
là danh tướng thời nhà Trần và cũng là danh tướng trong lịch sử Việt Nam có
công lớn trong hai lần kháng chiến chống Nguyên Mông. Ông là tác giả của bộ
Binh Thư Yếu Lược (Hay Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược) và Vạn Kiếp Tông Bí Truyền
Thư (Đã thất lạc).
Ông còn được người dân Việt Nam tôn sùng như bậc
Thánh, nên còn được gọi là Đức Thánh Trần.
Tóm tắt cuộc
đời Trần Triều Hưng Đạo Đại Vương
An Sinh Vương Trần Liễu lấy bà Lý Thị Thuận
Thiên, một hôm bà mơ thấy có người mặc áo bào xanh tự xưng là người trời
xuống đầu thai, giật mình tỉnh giấc, từ hôm đó bà mang thai, đủ ngày đủ
tháng hạ sinh được một con trai, trong nhà ngào ngạt hương thơm và hào quang,
thấy thế nên đặt tên con là Tuấn. Hôm đó vào ngày 10 tháng 12.
Sống trong một gia đình thân vương, được chăm
nom, dạy dỗ học hành tử tế, lớn lên trở thành một trang tuấn kiệt xuất sắc,
văn võ kiêm toàn, tài năng cái thế, trung trinh nhất mực. Sau này Ngài giúp
vua Trần 2 lần chiến thắng giặc Nguyên Mông, ngài lấy Trần Thị Anh Công
chúa sinh hạ được 4 vương tử và 2 vương nữ. Các con của Ngài cùng các gia thân
gia tướng đều anh dũng phi thường có công trong cuộc kháng chiến chống
Nguyên Mông.
Cuộc đời Ngài là tấm gương sáng về tinh thần
trung hiếu nghĩa chí tín. Muôn đời về sau mãi mãi tôn vinh, các triều đại
đều dùng những mĩ từ bậc nhất để tuyên tụng. Vua Trần phong “Quốc công
Tiết chế Nhân vũ Hưng Đạo Đại vương” hay đức Thượng từ. Trần Anh Tông phong
ông là “Thượng phụ Thượng Quốc công Bắc Bình Đại nguyên soái Quốc công Tiết
chế Hưng Đạo Đại vương”
Những năm tháng đất nước thái bình, Ngài lại về
sống cuộc sống thanh đạm ở Vạn Kiếp và qua đời ở đó. Ngài mất 20 tháng 8.
Đền thờ Ngài rất nhiều nhưng có thể kể đến là Đền Kiếp Bạc (Hải Dương),
Cố Trạch, Bảo Lộc (Nam Định), Trần Thương (Hà Nam)...
Thân Thế
Hưng Đạo Đại Vương:
Ông tên thật là Trần Quốc Tuấn, là con trai của An
Sinh Vương Trần Liễu, cháu gọi vua Trần Thái Tông bằng chú. Sinh ra tại Kiếp Bạc,
xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nguyên quán ở làng Tức Mặc, huyện
Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Năm sinh của ông là năm 1231.
Ông vốn có tài quân sự, lại là tôn thất nhà Trần,
do đó trong cả 3 lần quân Nguyên - Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần
cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2
và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết Chế các đạo quân thủy bộ.
Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử,
Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi quân Nguyên - Mông ra khỏi đất nước.
Sau khi kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 3
thành công. Đất nước thanh bình. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lui về sống ở Vạn
Kiếp. Ông đã dựa vào địa thế vùng Vạn Kiếp mà Kiếp Bạc là trung tâm để lập phủ
đệ và quân doanh làm phòng tuyến chiến lược giữ mặt Đông Bắc của Tổ Quốc. Ông
còn cho trồng các loại cây thuốc để chữa bệnh cho binh sĩ và nhân dân trong
vùng.
Muà thu tháng 8, ngày 20 năm Canh Tý, Hưng Long thứ
8, tức ngày 5/9/1300 trái tim người anh hùng đã ngừng đập. Theo lời dặn, thi
hài ông được hoả táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng
An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ. Sau khi ông mất triều đình phong tặng
là Thái Sư Thượng Phụ Quốc Công Tiết Chế Nhân Võ Hưng Đaọ Vương.
Nhân dân vô cùng thương tiếc người anh hùng dân tộc
đã có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc nên lập đền thờ Ông trên nền Vương Phủ gọi
là đền Kiếp Bạc. Dân ta kính trọng vinh danh Ông là Đức Thánh Hưng Đạo Đại
Vương lập đền thờ Đức Thánh Trần ở nhiều nơi.
Các Điển
Tích về Hưng Đạo Đại Vương:
Lúc thiếu thời:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép: "Lúc mới
sinh ra, có một thầy tướng xem cho và bảo: "[Người này] ngày sau có thể cứu
nước giúp đời"."
Khi lớn lên, ông có dung mạo khôi ngô, thông minh
hơn người, đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ. An Sinh Vương Trần Liễu trước
đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng (Tức vua Trần Thái Tông - Trần Cảnh), mang
lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn. Lúc sắp mất,
An Sinh Vương cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối rằng: "Con không vì cha lấy
được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được". Do
An Sinh Vương Trần Liễu lấy người chị của công chúa Lý Chiêu Hoàng là Thuận
Thiên Công Chúa, còn Trần Cảnh cưới Lý Chiêu Hoàng khi bà mới 7 tuổi. Sau này
Lý Chiêu Hoàng không có con nên năm 1237, Trần Thủ Độ bắt vợ của Trần Liễu lúc ấy
có thai ba tháng về làm vợ Trần Cảnh (Chị thay cho em). Chính vì lẽ đó mà Trần
Liễu oán giận Trần Cảnh. Trần Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng, nhưng không cho
là phải.
Năm 4~5 tuổi, Trần Hưng Đạo theo cha là Khâm Minh
Thái Vương (Tức Trần Liễu) đi Ái Châu, nơi giam cầm trọng tội. Trưởng Công Chúa
Thụy Bà thương anh cả vô tội bị đầy, bèn năn nỉ anh kế là Trần Thái Tông, xin
nhận Trần Hưng Đạo làm con đem về Thăng Long nuôi dạy. Để tránh sự soi mói ghẻ
lạnh của triều đình, Trần Hưng Đạo được Trưởng Công Chúa Thụy Bà gửi tại chùa
Phật Quang (Làng Khúc Thủy, Cự Khê, Thanh Oai, Hà Nội) nhờ trụ trì chùa dạy dỗ
cho tới năm lên 10.
Quan Hệ Với Trần Quang Khải:
Trước kia, Trần Thánh Tông thân đi đánh giặc, Trần
Quang Khải theo hầu, ghế Tể Tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Trần
Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tới bảo: "Thượng Tướng đi theo
hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư Đồ để tiếp sứ phương Bắc".
Trần Quốc Tuấn thưa: "Việc tiếp sứ giả, thần
không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư Đồ thì thần không dám vâng chiếu.
Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Thái Sư theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức,
thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và
Thượng Tướng. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn".
Một hôm, Trần Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Trần
Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội,
Trần Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: "Mình mẩy
cáu bẩn, xin tắm giùm". Rồi ông cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm
tắm cho Trần Quang Khải và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng Tướng".
Trần Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc Công tắm rửa cho".
Trước đây, hai ông tuy một là Quốc Công Tiết Chế,
một là Thượng Tướng Thái Sư nhưng do lo lắng về mối thù của Trần Liễu để lại mà
có mối hiềm nghi xa cách. Sau khi được Trần Quốc Tuấn tắm cho, hai ông trở nên
thân tình, tin tưởng nhau, tình nghĩa qua lại giữa hai ông ngày càng thêm mặn
mà. Trong việc giúp đỡ nhà vua, hai ông đều đứng hàng đầu.
Quyền Phong
Tước:
Vì có công lao lớn trong cả 3 lần chống quân
Nguyên - Mông nên vua gia phong ông là Thượng Quốc Công. Cho phép ông được quyền
phong tước cho người khác, từ Minh Tự trở xuống, chỉ có Tước Hầu thì phong tước
rồi tâu sau. Nhưng Trần Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào.
Khi quân Nguyên - Mông vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp
lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm Lang Tướng giả chứ không cho họ tước Lang Tướng
thực, ông rất kính cẩn giữ tiết làm tôi.
Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước,
như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô.
Các người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm
Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi
tiếng thời đó về văn chương và chính sự.
Bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng
giữ gìn trung nghĩa vậy. Xem như khi Trần Thánh Tông vờ bảo Trần Quốc Tuấn rằng:
"Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi". Trần Quốc Tuấn trả lời:
"Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng". Vì thế, đời Trùng Hưng, Trần
Quốc Tuấn lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến phương bắc, chúng thường
gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên.
Sau khi mất rồi, các Châu Huyện ở Lạng Giang hễ có
tai nạn bệnh dịch, nhiều người cầu đảo ông. Còn có lời đồn rằng, mỗi khi đất nước
có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào
cũng thắng lớn.
Trần Quốc Tuấn từng soạn các sách như Binh Gia Diệu
Lý Yếu Lược (Quen gọi là Binh Thư Yếu Lược) và Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư để dạy
các Tỳ Tướng, chiêu dụ họ bằng bài Hịch Tướng Sĩ. Trần Quốc Tuấn từng soạn sách
để khích lệ Tướng Sĩ dưới quyền, dẫn chuyện Kỷ Tín chết thay để cứu thoát Hán
Cao Tổ, Do-Vu-Thát-Đát (Mông Cổ).
Dưới vó ngựa của Mông Cổ, các nước Hồi Giáo hiếu
chiến ở Trung Á, các công quốc Moskva, Novogrod (Nước Nga ngày nay) cũng không
thể nào bảo vệ được nền độc lập của mình. Lãnh thổ của Đế Quốc Mông Cổ, theo
chiều ngang, kéo dài từ Viễn Đông (Gồm cả Triều Tiên) đến tận Moskva, Muhi
(Hungary), Tehran, Damascus. Chiều dọc từ Bắc Á xuống tới cả biên giới Ấn Độ,
Miến Điện. Trong cơn lốc chinh phục của họ, chỉ có Thái Lan (Giơ lưng chịu giáo
để cứu Sở Tử).
Trần Quốc Tuấn dạy đạo trung như vậy. Nhân dân Việt
Nam vô cùng kính trọng ông do công lao hai lần lãnh đạo đất nước chống lại được
họa Sukhothai, thoát khỏi họa diệt vong nhờ sách lược cầu hòa.
Nhật Bản may mắn nhờ một trận bão biển làm thiệt hại
bớt tàu của Mông Cổ & Đại Việt nhờ khả năng lãnh đạo của Hưng Đạo Đại Vương
mà giữ được bờ cõi. Mông Cổ không xâm chiếm được Ấn Độ, họ chỉ tiến được đến
biên giới miền Bắc Ấn Độ ngày nay và bị chặn lại. Họ cũng chỉ vào được miền Bắc
Miến Điện trong một thời gian ngắn rồi phải rút lui. Ngoài Đại Việt đánh bại được
đế chế Mông Cổ còn có Java (Indonesia), Ai Cập, Ấn Độ.
*** Năm Thuộc Hạ Tài Giỏi & Trung Thành Của Trần
Hưng Đạo ***
- Yết Kiêu.
- Dã Tượng.
- Cao Mang.
- Đại Hành.
- Nguyễn Địa Lô.
Lấy Dân Làm
Gốc:
Tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới
nhà thăm, hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang
xâm lược thì kế sách như thế nào?". Hưng Đạo Vương trả lời: "Ngày xưa
Triệu Vũ Đế (Tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế
thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản
binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người
tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới
một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống.
Đó lại là một thời.
Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới,
dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa
Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp
sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta
dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu
chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm
như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét
quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như
cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc,
đó là thượng sách giữ nước vậy".
Khi sắp mất, ông dặn con rằng: "Ta chết thì
phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san
đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho
mau phục".
Trần Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, quân Nguyên hai lần
vào cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa đào mả
chăng. Ông lo nghĩ tới việc sau khi mất lại là vì vậy.
Mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp Đạo Đại Vương. Vua Trần Thánh Tông có soạn bài văn
bia ở sinh từ của Trần Quốc Tuấn, ví ông với Thượng Phụ (Lã Vọng ngày xưa bên
Trung Quốc).
Nhân Dân
Sùng Kính Phong Thánh:
Sau khi mất, Trần Hưng Đạo được thờ phụng ở nhiều
nơi, trong đó lễ hội lớn nhất ở đền Kiếp Bạc thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương ngày nay, nơi ngày xưa là phủ đệ của ông.
Ông được người dân nhiều đời sùng kính phong Thánh
tức là Đức Thánh Trần, đây là điều hiếm hoi trong lịch sử chỉ dành riêng cho vị
danh tướng nhà Trần. Ngày lễ chính thức được tổ chức vào ngày ông mất (20 tháng
8 Âm Lịch hàng năm). Nhân dân không gọi trực tiếp tên của ông mà gọi là Hưng Đạo
Vương, Hưng Đạo Đại Vương, Đức Thánh Trần, hoặc gọi là Cha (Tháng Tám giỗ Cha,
tháng Ba giỗ Mẹ).
Cách gọi danh hiệu của ông cũng khác các vị Vương.
Các Vương đều được gọi theo Tước và Tên, như Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải,
Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, còn riêng ông được gọi bằng Họ và Tước là Trần
Hưng Đạo. Đây là cách gọi vốn chỉ dành riêng cho các vị vua là Họ và Miếu hiệu
(Như Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông). Qua đó có thể thấy dân gian coi ông
ngang với các vua Trần.
Các đền thờ Hưng Đạo Đại Vương có thể thấy ở khắp
nước Việt Nam.
- Tác Phẩm: Hịch Tướng Sĩ; Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược
(Hoặc gọi là Binh Thư Yếu Lược); Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư.
- Sơ lược về Gia Đình:
Cha: An Sinh Vương Trần Liễu.
Mẹ: Thiện Đạo Quốc Mẫu Húy Nguyệt.
Anh Em: Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung (Anh trai); Vũ
Thành Vương Trần Doãn (Anh trai); Trần Quốc Khang (Em trai). Năm 1237, khi công
chúa Thuận Thiên - vợ Trần Liễu - có mang Quốc Khang 3 tháng thì bị Trần Thủ Độ
ép lấy Trần Thái Tông; Trần Thị Thiều (Em gái) làm hoàng hậu của Trần Thánh
Tông. Mẹ đẻ của Trần Nhân Tông, được phong là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái
Hậu.
Vợ: Công
Chúa Thiên Thành tức Nguyên Từ Quốc Mẫu (? - 1288). Lấy tháng 2 năm 1251.
- Con: Trần Hưng Đạo có 4 người con trai và 1 người
con gái. Ngoài ra còn 1 người con gái nuôi.
Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn (Hiến, Nghiện): Võ
Tướng.
Minh Hiến Vương Trần Quốc Uất: Võ Tướng.
Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng: Võ Tướng, cha vợ
của Trần Anh Tông, ông nội của Tư Đồ Văn Huệ Vương Trần Quốc Triều (Trọng thần
của Trần Minh Tông).
Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện (Nghiễn): Võ Tướng, nhà
khai khẩn đất đai.
Khâm Từ Hoàng Hậu: Vợ vua Trần Nhân Tông.
Anh Nguyên Quận Chúa: Con nuôi của Trần Hưng Đạo,
vợ của Phạm Ngũ Lão.
Câu Nói Nổi
Tiếng:
"Bệ hạ
chém đầu tôi trước rồi hãy hàng"
"Vua
tôi đồng lòng, anh em đoàn kết, cả nước góp sức, nên bọn giặc phải chịu bị bắt"
--- Trần Hưng Đạo ---
"Ta thường
tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa. Chỉ giận
chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân ta phơi
ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm"
--- Hịch Tướng Sĩ --
-ST-