CĂN NGUYÊN VÀ SỰ NGỘ NHẬN "ĐỘ TA KHÔNG ĐỘ NÀNG"
Trào lưu có tên "Độ ta không độ nàng" đã
trở thành chủ đề trong cuộc phỏng vấn giữa phóng viên với Thượng tọa Thích Minh
Hiền - Phó trưởng ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trụ trì
chùa Hương (Mỹ Đức, Hà Nội).
Vấn đề xuyên suốt trong những lời giảng của Thượng
tọa là một "căn bệnh" của thời đại, dẫn đến sự ngộ nhận mang tên
"độ ta không độ nàng" mà cộng đồng quan tâm những ngày qua. Đó là bệnh
nhờ cậy - con người đang chỉ thích dựa dẫm vào tha lực của người khác.
Phật độ với tất cả chúng sinh, không từ một
ai
Phóng viên:
Thưa Thượng tọa, từ cổ chí kim đã từng có nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật của
người đời đề cập đến hoặc lấy đề tài Phật giáo ra để phản ánh. Kết quả là người
đời có thể hiểu đúng, hiểu sai hay hiểu chưa cặn kẽ về Phật pháp qua những tác
phẩm trên. Là Phó Trưởng ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
Thượng tọa nghĩ sao?
- Thượng tọa
Thích Minh Hiền: Văn dĩ tải đạo cô ạ! Do đó, mọi tác phẩm nghệ thuật dù là
phục vụ thị hiếu cho giai tầng nào đi nữa thì cũng đều hàm ẩn một triết lý nhân
sinh, một ý niệm nào đó của đời sống. Người ta có thể nói đúng, có thể nói sai,
có thể nói chưa đến được chân lý. Song đó đều là những điều mà người ta đang
tri kiến được.
Trên thực tế thì Phật giáo là một trong những tôn
giáo có sức ảnh hưởng lớn trên thế giới. Nên người ta lấy chuyện nhà Phật làm đề
tài sáng tác rất nhiều. Trên thế giới có nhiều lắm.
Gần gũi với chúng ta nhất có thể là bộ Tây Du Ký của
Ngô Thừa Ân. Tác phẩm này, gọi là thể loại tiểu thuyết thần tiên ma quái cũng
đúng, mà gọi là văn học phản ánh tư tưởng Phật giáo cũng không sai. Quan trọng
là chúng ta nhìn ở điểm nhìn nào thôi.
Tại Việt Nam, với điểm nhìn của mình, tên Tây Du
Ký được dịch giả giữ nguyên phiên âm để đảm bảo tinh thần của tác phẩm gốc. Còn
bản dịch ra tiếng Anh của Arthur Waley có tiêu đề là Monkey (con khỉ). Vậy là
điểm nhìn khác nhau, cho ra cách hiểu khác nhau hoàn toàn đúng không nào! Và
chúng ta thì không nên phán xét đúng sai ở đây.
Một tác phẩm khác mà thầy muốn nhắc đến là tiểu thuyết
Thoát Vòng Tục Lụy của Hòa thượng Thích Tinh Vân, được Việt dịch bởi Hòa thượng
Thích Quảng Độ, xuất bản tại Sài Gòn năm 1962.
Lấy hình hài là một tiểu thuyết mang âm hưởng của
thể loại tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình xưa, hòa thượng Tinh Vân đã kể lại chặng
đường tu hành của Ngọc Lâm quốc sư, từ lúc còn vướng bụi hồng trần đến khi
thoát khỏi vòng tục lụy.
Với cách kể chuyện súc tích, ngôn ngữ dễ hiểu mà vẫn
truyền tải được ý niệm Phật giáo, cuốn sách thực chất là tài liệu hữu ích cho
những ai muốn tìm hiểu về duyên nghiệp nơi cửa Phật. Vậy những người yêu văn
hóa đọc, lại có tâm hướng Phật rất nên tìm đọc và hưởng thụ cái hay, cái đẹp của
những tác phẩm như thế.
Thế còn những tác phẩm đương đại trong những năm gần
đây của người đương thời nói về Phật giáo hay mượn đề tài Phật giáo thì thầy
không được đọc hay tìm hiểu nhiều. Cho nên cũng không biết rõ ngôn ngữ nghệ thuật
bây giờ ra sao.
Chúng ta phải chấp nhận rằng có một khoảng cách nhất
định giữa các thế hệ. Chắc chắn ngôn ngữ của thời đại @, ngôn ngữ của thời đại
4.0 sẽ phải có 1 sự cách xa với thế hệ của thầy. Do đó, thầy không lạm bàn. Các
bạn trẻ có quyền được nói lên tiếng nói của họ.
Thầy cho rằng đó cũng chỉ là cách nhìn cuộc đời của
họ mà thôi. Họ nghĩ thế nào thì họ bạch ra thế ấy qua tác phẩm của mình. Còn hiểu
như thế nào, chấp nhận hay không, và chấp nhận ở mức nào đều là do công chúng.
Người trẻ có thể thấy lạ thấy hay. Đó là cách nhìn của người trẻ, những người mới
vào đời, vẫn đang phải học tập rất nhiều để trưởng thành.
Rồi, qua trải nghiệm, người trẻ sẽ còn thay đổi
nhiều cách nhìn, cách hiểu về mọi thứ, kể cả Phật giáo. Biết đâu vài năm tới,
cũng nghệ sĩ đó nếu có viết 1 tác phẩm gì đó liên quan đến nhà Phật, tư tưởng lại
hoàn toàn khác với hôm nay?
Còn Phật tử thì thầy thiển nghĩ không nên bận tâm
đến những sản phẩm ấy. Chúng ta có 1 thứ đặc quyền đối với văn hóa đó là tự
mình lựa chọn và tự mình quyết định có thụ hưởng sản phẩm ấy hay không.
Với chư tăng, thầy giữ một nguyên tắc là không được
phép tìm kiếm hay thụ hưởng nó. Người xuất gia đi tu có phép tắc của người đi
tu. Vô tình hay cố ý thụ những sản phẩm vốn chỉ mặc định cho ngoài xã hội là
trái quy tắc.
Còn bàn đến chuyện đúng sai, cũng giống các cao
tăng khác đã từng lên tiếng, thầy cho rằng tác giả và người biểu diễn tác phẩm
đó chưa hiểu thấu đáo tinh thần của nhà Phật.
Phóng viên:
Vậy cần hiểu chữ "Độ" như thế nào theo chính pháp đạo Phật, thưa Thượng
tọa?
- Thượng tọa
Thích Minh Hiền: "Độ", vốn nghĩa chữ Hán là đưa qua. Ví dụ: tôi
đưa anh qua sông, thì gọi là "độ". Ví dụ như Quan âm cứu độ, quan âm
độ hải... Nghĩa phái sinh của "Độ" còn là cứu. Trong Phật giáo có từ
"độ tận" thì trong đạo Thiên Chúa có từ "cứu rỗi". Nếu nói
rằng: thầy độ cho con để vào Thiên Trù nghĩa là thầy đưa đò cho con vào chùa
Thiên Trù đó!
Trong Phật giáo, chữ "độ tận", "cứu
độ" khác với "hộ trì" là bảo vệ. Khi nói "Phật độ"
chúng ta có thể hiểu là Phật, với sự giác ngộ của mình, sẽ đưa con người qua
sông mê mà đến được với bến giác. Và Phật thì độ với tất cả chúng sinh, không từ
một ai, không phân biệt sang hèn phú quý...
Tha lực bị lạm dụng trong đời sống dân sinh
- Phóng
viên: Vậy nghĩa là khi người ta nói "độ cho người này mà không độ người
kia" là một sự nhầm lẫn, hiểu sai về đạo Phật. Như vậy có đáng trách
không, thưa Thượng tọa?
- Thượng tọa
Thích Minh Hiền: Đó thực ra là sự tỵ hiềm, khi người ta không hiểu biết.
Người đời có thể nói như vậy, vì họ chưa hiểu biết hết mà. Chúng ta cũng không cần trách cứ vì người ta chưa giác ngộ,
chưa hiểu về chữ "Độ" mà vẫn cứ hát.
Trong Phật giáo, có 2 khái niệm: tha lực và tự lực.
Tha lực là nhờ vào người khác. Khi chúng ta cứ mong ai đó hay Thần, Phật độ
mình nghĩa là mình đang mong chờ tha lực từ người khác.
Thật ra tha lực cũng có vai trò nhất định của nó
trong chuỗi đời sống gửi của con người ở thế gian. Nếu chúng ta biết tự lực
giác ngộ để tận hưởng hết những giai đoạn hợp lý của tha lực thì sẽ rất tốt.
Ví dụ: lúc nhỏ con cái nhờ sự chăm sóc của bố mẹ mà
lớn khôn. Tha lực từ bố mẹ lúc này rất quan trọng cho trẻ nhỏ. Nhưng đến 18 -
20 tuổi rồi mà vẫn chỉ nhờ cha mẹ nữa thì đúng là dựa dẫm rồi còn gì!
Có điều này đáng suy nghĩ, là thầy đang nhìn thấy
tha lực dường như đã trở thành một đặc tính của chúng sinh ngày nay. Con người
ngày nay rất hay nhờ cậy vào người khác. Cái gì cũng nhờ, thậm chí cả hành lễ
cũng nhờ. Một bà hàng xóm rất hoan hỷ sang nhà bên cạnh và nói: "Bà ơi,
mai đi chùa thì lễ giúp tôi với".
Thậm chí, ngay cả trong nhiều các văn bản cũng
đang rơi vào cảnh huống tha lực này, khi rất hay có câu: "nhờ sự chỉ đạo...".
Cái gì cũng "nhờ"!
Có thể thấy tha lực đang quá bị lạm dụng trong cuộc
sống dân sinh. Chỉ có mỗi tiêu tiền hình như là người đời chưa nhờ ai tiêu hộ.
Rồi khi mọi người đến cửa Phật lại hay mang theo
tư duy đó. Người ta có thể đến chùa để tìm về một nơi yên tĩnh, hướng đến tự
giác ngộ cho lòng thanh thản; mà người ta cũng có thể đến chùa với rất nhiều sự
cầu mong Phật độ.
Thậm chí, chúng sinh bây giờ phải dùng 3 loại thầy
mới có thể chữa được 3 loại bệnh của thời đại: Tây Y, Đông y và Tâm y. Thầy thấy
có rất nhiều cuộc trò chuyện thường ngày của bệnh nhân như sau:
- Bác đã chữa đông y chưa?
- Chữa rồi nhưng chưa thấy thuyên giảm, để cho
nhanh tôi lại phải chuyển sang tây y.
- Thế bác đã vào chùa làm lễ đảo bệnh chưa?
- Rồi!
Đó, bệnh của chúng sinh là không tự tin vào mình
mà rước vào lòng sự bất an, bệnh lo sợ. Trong khi đó, Đức Phật luôn luôn khuyến
khích chúng sinh hãy tự thắp đuốc lên mà đi.
Diệu pháp của Đức Thế Tôn là giáo pháp mà mọi người
có thể đến mà tự thấy. Cho nên trong khóa tụng hàng ngày, chư tăng đều răn mình
luôn "tự quy y Phật" hay "tự quy ư Phật" (tự quy đối với Phật),
tức là phát huy nội lực của chính mình để tự giác ngộ.
Vậy, để tha lực có ý nghĩa, thì tha lực phải sinh
ra được tự lực trong mỗi một con người. Để từ nhờ cậy, con người sẽ tự cất bước
đi trên chính đôi chân của mình.
Nói như Không Lộ thiền sư: Hữu thời trực ngạn cô
phong đỉnh, trường khiếu nhất thanh hàn thái hư. Có khi tự lực xung thiên chí.
Và ở đây, vai trò của Phật giáo, đóng góp của Phật giáo vào cuộc sống chính là
giáo hóa chúng sinh để chúng sinh từ chỗ chưa hiểu mà đến hiểu, từ hiểu đến biết
tin tưởng vào năng lực của chính mình, có niềm tin vào cuộc sống, và phát huy sức
mạnh của mỗi con người, phát huy những năng lực mà mình đang có trong cuộc sống.
Đó chính là ý nghĩa sâu xa của chữ "Độ"
trong Phật giáo.
Ngay bây giờ và ở đây!
- Phóng
viên: Từ việc giải nghĩa chữ Độ trong Phật giáo, thầy có lời khuyên gì cho
mọi người trong đời sống hiện đại đầy áp lực, vội vã hôm nay?
-Thượng tọa
Thích Minh Hiền: Có một bài tụng của nhà Phật là Hiện pháp lạc trú, Kinh Di
Đà gọi là "cực lạc hiện tiền". Phật đã dạy chúng sinh rằng: hãy luôn
biết ngay ở đây và bây giờ. Phật đã dạy như thế đấy!
Thế nhưng chúng sinh lại đang rơi vào một thực tế
là không dám tự đi trên chính đôi chân của chính mình mà luôn mang một tư tưởng
tha lực, nhờ cậy. Lúc nào cũng nhờ, khiến con người bị quen mất rồi.
Cho nên bây giờ, muốn có được tự lực, giáo dục cần
hướng đến việc hãy để người ta tự đi trên đôi chân trần, đôi chân không của
mình, cảm nhận và tự quyết định cuộc sống hôm nay của chính mình. Và chúng ta sẽ
thấy được sự an lạc ngay trong sát nat thực tại. Đó là thứ giá trị nhất của cuộc
sống, của ngày hôm nay.
Dù ta là ai, hay ta làm gì thì cái sát na đó, các
giây phút đó mà chúng ta có thể làm được những việc giá trị cho chính mình và
cho tha nhân thì nó phải nằm ở ngay bây giờ và ở đây.
Như cuộc trò chuyện này của thầy với thí chủ, nếu
có thể tỏ được điều gì trong sở kiến của nhà chùa giúp cô được việc, nhà chùa
cũng lấy làm an lạc. Ngay bây giờ có phải tự lực mà cô đã đến và tự lực đã thấy
như vậy không nào?
-ST-