QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Quán Thế Âm Bồ Tát - Ngài đã giác ngộ, biết rõ
chân lý của vũ trụ, chứng được phép “nhĩ căn viên thông”, nghe thông suốt hết
thảy âm thanh của vũ trụ, như người đã thức dậy rồi trong ngôi nhà “vũ trụ”
kia, nghe biết hết thảy chân tướng các sự vật, động tịnh trong ngoài.
Các vị Bồ Tát là những bậc được kết tinh bởi đức hạnh
cao quý tuyệt vời của đức Phật và được thánh hóa để trở thành nhu cầu của quần
chúng. Nếu như con người ở một thời đại nào đó khao khát tri thức, trí tuệ thì
tính chất trí tuệ được thánh hóa và đặt lên hàng đầu với hình tượng biểu trưng
là Bồ Tát Văn Thù. Ngược lại, khi nhân loại đang cần tình thương và sự che chở
bảo hộ, cần một bàn tay hiền từ, tươi mát tưới tẩm, cảm thông và xoa dịu nỗi
đau thương tang tóc trong cuộc sống thì hình ảnh Quán Thế Âm Bồ Tát lại được
thánh hóa để làm chỗ nương tựa cho tâm hồn của họ.
Có thể nói, hai vị Bồ tát kể trên cũng là biểu tượng
đặc trưng cho chất liệu “từ bi và trí tuệ”, một triết lý trác tuyệt tiềm ẩn
xuyên suốt toàn bộ hệ thống kinh điển của Phật giáo. Đặc biệt, hình ảnh Bồ tát
Quán Thế Âm, biểu tượng của tình thương bao la vô bờ bến, là đấng mẹ hiền trên
tất cả mẹ hiền, trên tất cả thánh nhân được tôn xưng là mẹ hiền, Ngài luôn được
người đời kính ngưỡng bởi hạnh nguyện từ bi, ban vui và cứu khổ không mệt mỏi,
không giới hạn và luôn được đức Phật nhắc đến trong các kinh điển Đại Thừa.
Quán Thế Âm, tiếng Phạn gọi là Avalokitévara,
Nghĩa là vị Bồ Tát quán sát âm thanh đau khổ của thế gian kêu cầu mà cứu độ một
cách tự tại. Do Ngài quán sát âm thanh một cách tự tại mà chứng được bản thể
chân thường của vũ trụ. Nơi nào, lúc nào trong vũ trụ có tiếng chúng sinh đau
khổ, kêu cầu thì Ngài hiện thân cứu độ rất tự tại, cho nên Ngài cũng có tên là
Quán Tự Tại, Quán Thế Tự Tại…
Bồ Tát, nói cho đủ là Bồ đề Tát Đỏa, tiếng Phạn là
Bodhisattva, nghĩa là giác hữu tình hay hữu tình đã giác ngộ, trở lại giác ngộ
hữu tình khác. Ví như có nhiều người đang ngủ mê, có một người tỉnh thức, người
ấy đánh thức những người còn lại đang ngủ mê. Người tỉnh thức đó gọi là bậc
giác ngộ như chư Phật, Bồ Tát, kẻ ngủ mê là chúng sinh. Bồ Tát Quán Thế Âm được
ví như Người đánh thức những người đang ngủ mê trong ngôi nhà đó.
Vì Ngài đã giác ngộ, biết rõ chân lý của vũ trụ,
chứng được phép “nhĩ căn viên thông”, nghe thông suốt hết thảy âm thanh của vũ
trụ, như người đã thức dậy rồi trong ngôi nhà “vũ trụ” kia, nghe biết hết thảy
chân tướng các sự vật, động tịnh trong ngoài. Cho nên chúng sinh nào xưng niệm
danh hiệu Ngài liền được Ngài “tầm thanh cứu khổ”, giải thoát khỏi tai ách, hoạn
nạn. Ngài đã chứng được bản thể của âm thanh vốn dĩ là không, vô thường, vô ngã
nên Ngài thường được tôn xưng là Quán Thế Âm.
Xét về cuộc đời tu hành, thệ nguyện cũng như công
đức hóa độ của Ngài, các kinh điển thuờng đề cập như: kinh Bi Hoa, Diệu Pháp
Liên Hoa kinh - Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, Vô lượng Thọ kinh, Đại Bát Nhã
ba la mật đa kinh, Ngũ Bách Danh kinh, Đại Phương Quảng Như Lai tạng kinh… Đặc
biệt kinh Bi Hoa nói rất rõ về cuộc đời tu tập của vị Bồ Tát này như sau:
“Về thuở quá khứ lâu xa về trước, Đức Quán Thế Âm
là một vị thái tử tên là Bất Huyền, con của vua Vô Tránh Niệm, thời ấy có Đức
Phật ra đời tên là Bảo Tạng Như Lai. Vua Vô Tránh Niệm hết lòng sùng bái đạo Phật.
Vua liền sắm đủ lễ vật quý báu dâng cúng Phật và chư Tăng trong ba tháng hạ,
vua cũng khuyến khích các quan văn, vương tử, vương tôn, triều đình quyến thuộc
theo vua cúng dường. Thái tử Bất Huyền vâng lệnh vua cha, cũng dâng cúng đủ các
trân cam mỹ vị, hết lòng thành kính Đức Phật và chúng Tăng trong ba tháng như vậy.
Lúc ấy, có vị đại thần tên là Bảo Hải, tức là thân
phụ của Phật Bảo Tạng, khuyên thái tử Bất Huyền nên lập nguyện nhờ công đức
cúng dường này mà cầu quả báu Vô thượng Bồ đề, không nên cầu quả ở cõi trời,
cõi người này, vì quả báu phước cõi ấy là phước báu hữu hạn, dù chúng ta có lên
trời rồi, đến khi hết phước cũng phải sa đọa. Sao bằng đem công đức cúng dường
này hướng về quả báu vô thượng bồ đề mới là phước báu chân thật vĩnh hằng.
Nghe đại thần khuyên như vậy, Thái tử liền đến trước
Phật Bảo Tạng phát đại thệ nguyện: “nguyện xin nhờ công đức cúng dường này cầu
quả vô thượng bồ đề. Con nguyện xin trong lúc tu đạo tự lợi, lợi tha, nếu có
chúng sinh nào lâm vào tai nạn, không thể tự cứu chữa được, không nơi nương nhờ,
hễ niệm đến danh hệu con, con liền đủ sức thần thông đến cứu độ ngay. Nếu lời
nguyện ấy không thành, con thề không chứng quả Bồ đề. Con xin phát đại thệ nguyện
tu đạo Bồ Tát cho đến cùng tận đời vị lai, trãi qua vô số kiếp, khi phụ vương
con (vua Vô Tránh Niệm) thành Phật hiệu A Di Đà ở thế giới Cực Lạc thì con sẽ
làm thị giả hầu hạ Ngài cho đến khi Chánh Pháp Ngài tận diệt con mới chứng quả
Bồ đề. Con nguyện xin Đức Thế Tôn và mười phương chư Phật thụ ký cho con như vậy”.
Đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho thái tử và nói rằng:
“Do quán sát chúng sinh trong vô số thế giới đều vì tội nghiệp mà phải chịu quả
báu đau khổ nên ngươi phát bi tâm, ngươi lại nguyện quan sát nghe được tiêng
kêu cầu đau khổ của thế gian để đến cứu độ. Nay ta thọ ký cho ngươi hiệu là
Quán Thế Âm. Ngươi sẽ giáo hoá cho vô lượng chúng sinh thoát khỏi khổ não,
trong khi tu đạo, ngươi phải làm mọi Phật sự để lợi ích chúng sinh”.
Do đó, sau khi Phật A Di Đà nhập diệt rồi, cõi Cực
Lạc sẽ đổi tên là Nhất Thế Trân Bảo Sở Thành Tựu, càng thêm tốt đẹp hơn trước nữa.
Khi ấy, đang lúc ban đêm, trong khoảnh khắc, tất cả mọi thứ trang nghiêm đều hiện
ra giữa không trung, tức thì ngươi thành Phật hiệu là “Biến Xuất Nhất Thế Quang
Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai, sống lâu đến chín mươi sáu ức na do tha kiếp.
Sau khi ngươi diệt độ rồi, chánh pháp sẽ còn lưu truyền lại sáu mươi ba ức kiếp
nữa”.
Thái tử nghe Phật thọ ký rồi, lòng vô cùng hoan hỷ
và bạch rằng: “như lời nguyện của con được hoàn toàn viên mãn thì đối với con
còn hạnh phúc nào bằng. Nay con xin nguyện mười phương chư Phật cũng thọ ký cho
con như thế, làm cho tất cả thế giới đều rung chuyển như tiếng âm nhạc, ai nghe
cũng được giải thoát”. Thái tử bạch rồi, cúi đầu đảnh lễ Đức Phật.
Bấy giờ, các thế giới tự nhiên rung chuyển, phát
ra tiếng hòa nhã như âm nhạc, ai nghe cũng thân tâm thanh tịnh, dục vọng không
còn. Tiếp đó là các Đức Phật trong mười phương thế giới cũng đồng thanh thọ ký
cho Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: “Trong thời kiếp Thiên Trú, ở thế giới Tân Đề Lam
có đức Bảo Tạng Như Lai ra đời, thái tử Bất Huyền, con vua Vô Tránh Niệm phát
tâm cúng Phật và chúng Tăng ba tháng. Nhờ công đức ấy, trãi qua vô số kiếp về
sau, thái tử sẽ thành Phật hiệu là “Biến Xuất Nhất Thế Công Đức Sơn Vương Như
Lai” ở thế giới Trân Bảo Sở Thành Tựu.
Nghe chư Phật thọ ký xong, thái tử hoan hỷ vô
cùng. Từ đó, trãi qua vô số kiếp về sau, Ngài tinh tấn tu đạo Bồ Tát, cứu độ tất
cả chúng sinh, không bao giờ quên đại bi tâm của Ngài.
Kinh Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng và kinh Đại
Phương Quảng Như Lai nói rằng: Ngài cùng Bồ Tát Đại Thế Chí vì lòng từ bi, thệ
nguyện dấn thân vào con đường phụng sự, đem lại hạnh phúc, an lạc cho chúng
sinh, không chịu vào cảnh giới tối thuợng của chư Phật.
Kinh Pháp Hoa, một bộ kinh rất quen thuộc với Phật
tử thuộc truyền thống Phật giáo Đại Thừa ghi rằng: Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hiện
thành thân Phật, thân Bích Chi Phật, thân Đại Tự Tại thiên, thân tiểu vương,
thân người nam, thân người nữ … cho đến thân dạ xoa, la sát, phi nhân .v.v…
Kinh Ngũ Bách Danh còn đề cập đến 500 loại hóa thân của Ngài để tùy duyên ứng
hiện hóa độ thuyết pháp.
Tóm lại, Quán Thế Âm là vị Bồ Tát quan sát chúng
sinh khổ đau trong thế gian mà khởi lòng đại bi, đoạn trừ phiền não, làm cho
chúng sinh được an lạc. Ngài là hình ảnh của đại từ đại bi, của tình thương bao
la, vì bi nguyện độ sinh, Ngài có thể hóa hiện từ trên thân Phật, dưới cho đến
thân quỷ dạ xoa, la sát để hóa độ chúng sinh. Chính sự hóa thân đó đã làm cho
hình ảnh của Ngài nói riêng, Phật giáo nói chung trở nên năng động và tích cực
hơn trong việc cứu khổ độ sinh vậy.
Sự tích
Quan Thế Âm Bồ tát với tích Quan Âm Thị Kính
Trước kia Đức Quan Âm Bồ Tát tu đã đặng tám kiếp,
qua tới kiếp thứ chín Ngài phân thân nam nhi đi tu chứng bậc tỳ kheo. Khi kiếp
thứ chín của Ngài gần hết thì Đức Thích Ca giáng xuống thử lòng. Đấng Thế Tôn
hiện ra một người con gái tới ép nài vị tỳ khưu kia kết duyên với mình. Vị này
mới thốt rằng: “Có chăng họa may là kiếp sau, chớ kiếp này vì lời thề nguyện tu
trì thì không thể nào đặng.” Vì lời hứa ấy mà sau khi mãn kiếp thứ chín rồi vị
tỳ khưu kia phải giáng trần đầu thai làm thiếu nữ, suốt đời phải chịu trăm điều
cay đắng về vấn đề tình duyên để thử lòng Ngài coi ra sao.
Kiếp thứ 10, Bồ tát Quan Thế Âm giáng trần đầu
thai làm con gái nhà họ Sùng là Sùng Ông, một nhà giàu có ở xứ Cao Ly lại là
nhà từ tâm chưởng đức. Hai ông bà tuổi đã cao mà không con nên đi cầu tự và
sinh ra nàng Thị Kính, dung nghi đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang. Hai ông bà mừng
được chút con gái để có người hôm sớm trong lúc tuổi già. Khi nàng đã đúng tuần
cập kê thì gần đó có chàng Thiện Sĩ, con nhà quyền quý trâm anh cậy mai đến
nói. Vợ chồng Sùng Ông thấy phải đôi vừa lứa bèn chịu gả con gái mình.
Đến ngày nạp thái vu quy nàng Thị Kính buồn tủi
muôn phần! Buồn là vì thấy mình là con một, một khi đã xuất giá rồi thì bề nhà
sau trước quạnh hiu, lấy ai mà thần tỉnh mộ khang thế cho mình! Tủi là lỡ sinh
làm con gái thì đúng tuổi phải xuất giá tòng phu rủi may phải chịu và ơn sinh
thành không sao trả đặng! Cha mẹ nghe nàng than thở làm vậy bèn kiếm lời khuyên
giải và nói rằng: Cha mẹ sinh con là gái, thì khôn lớn có nơi có chốn làm đẹp mặt
nở mày mẹ cha đó là đủ rồi. Con chẳng nên lo điều chi khác nữa! Vả lại nhà bên
chồng con cũng gần đây thì sự thăm viếng cũng thuận tiện. Nghe vậy nàng mới an
lòng chiều ý muốn của cha mẹ. Từ khi về nhà chồng, nàng giữ một mực tôn kính,
phụng sự nhà chồng, trong êm ngoài ấm, ai nấy đều khen.
Một ngày kia nàng đang ngồi may, chàng Thiện Sĩ
sau khi đọc sách mỏi mệt mới ra gần chỗ nàng may mà nằm nghỉ, luôn dịp ngủ
quên. Từ khi về nhà chồng đến giờ nàng chưa có dịp nhìn chàng cho chính đính.
Nay có cơ hội đưa đến nàng, nhân lúc chàng ngon giấc mà nhìn kỹ mặt đức lang
quân. Chợt thấy dưới cầm chàng có mọc một sợi râu và biết coi tướng ít nhiều,
nàng thấy quả là sợi râu bất lợi! Nhân cầm sẵn cái kéo trong tay nàng mới đưa
kéo ra cắt lấy. Đương lúc ấy, chàng Thiện Sĩ giựt mình thức dậy, thấy vợ cầm
kéo đưa ngay cổ mình, vụt la hoảng lên rằng: “Vợ tôi muốn giết tôi.” Trong nhà
vỡ lở, cha mẹ gia tướng chạy đến gạn hỏi. Nàng tình thật cứ nói ngay, không ngờ
cha mẹ chồng quá ư nghiêm khắc bắt tội nàng có ngoại tình và mưu giết chồng.
nhân cớ ấy cha mẹ chồng buộc chàng Thiện Sĩ làm tờ để vợ và mời vợ chồng Sùng
Ông đến lãnh con về. Vợ chồng Sùng Ông hơ hãi tới nơi mới tường tự sự. Hai ông
bà kêu con ra hỏi, rầy la than trách một hồi rồi lãnh con về.
Lúc ấy Thiện Sĩ lòng như dao cắt, tưởng là việc
đáng bỏ qua không dè đến nỗi rẽ thúy chia loan thì chàng ăn năn vô ngần, châu
rơi lã chã. Khi nàng Thị Kính lạy từ công cô và chàng ra về, vì sợ uy cha mẹ
chàng chẳng dám hở môi nói bào chữa nàng một lời nào.
Về nhà, nàng Thị Kính buồn bã muôn phần. Một là buồn
cho số phận long đong, tình duyên trắc trở; hai là buồn cho cha mẹ phải mang điều
phiền não trong lòng.
Vì nàng là một người đàn bà chân chính may rủi một
chồng mà thôi, nàng khăng khăng không chịu “ôm cầm thuyền ai”. Nàng than rằng nếu
có anh em đông thì nàng cũng đành nhắm mắt cho rồi để khỏi mang tiếng nhơ.
Nhưng vì nàng là con một, nàng không nỡ hủy mình, sợ e thất hiếu, mà ở như vậy
thật rất khổ tâm cho nên nàng quyết chí xuất gia, noi gương Phật Tổ, tu hành
cho đắc đạo rồi trở về độ lại mẹ cha.
Một hôm, nàng lén cải trang nam tử, rồi bỏ nhà trốn
đi. Hay tin cha mẹ nghi nàng vì buồn tình xưa mà sinh nhẹ dạ theo người và sai
người đi kiếm cùng nơi mà không gặp.
Từ khi nàng lìa gia đình ra đi thì nàng có ý tìm một
cảnh chùa để gửi thân. Đến ngôi chùa được chọn nàng gặp giờ sư cụ đang thuyết
pháp. Nàng trộm xem tướng mạo thì thấy rõ đó là một bậc chân tu, đạo pháp khá lớn.
Nàng bèn xin thọ pháp quy y. Sư cụ ban đầu rất nghi ngờ nàng, bèn ngọn hỏi
ngành tra vì sợ e trang thiếu niên kia sau này bán đồ nhi phế mà đắc tội với Phật
Trời. Nàng thì một mực nói mình là một thư sinh, con nhà quyền quý, lòng chán
công danh nên vào nương nhờ cửa Phật để gột rửa lòng phàm.
Thấy chí quả quyết của vị thiếu niên, sư ông mới
vui nhận cho làm đệ tử và ban pháp danh là Kính Tâm.
Vì sãi Kính Tâm là nữ trá hình cho nên dung mạo
khôi ngô kiều mị, làm cho hàng tín nữ trầm trồ, nhất là nàng Thị Mầu, con của một
vị phú ông trưởng giả vùng ấy. Mượn cớ ra vô trong chùa, nàng Thị Mầu lắm khi
đưa tình trêu ghẹo sãi Kính Tâm, nhưng nàng vẫn trơ trơ như không hay không biết.
Thất vọng, Thị Mầu mới quay lại tư tình với đứa ở của nàng. Khi thai đã gần
già, khí sắc nàng đổi, làng xã thấy thế mới đòi phú ông và nàng ra hỏi.
Chịu đòn không kham, Thị Mầu túng phải cung xưng.
Trong khẩu cung Thị Mầu quả quyết rằng mình có tư tình với sãi Kính Tâm nên mới
ra cớ đỗi và xin làng rộng lượng cho sãi Kính Tâm hoàn tục kết duyên với mình.
Trống mõ inh ỏi, cửa thiền xưa nay êm lặng phút chốc
trở nên huyên náo, sóng dậy ba đào. Người nhà làng đến chùa đòi sư ông và sãi
Kính Tâm ra nghe dạy việc.
Thầy trò cùng dắt nhau đi. Đến nơi mới hay tự sự!
Tá hỏa tâm thần, thầy hỏi trò có sao nói thiệt. Trò một mực kêu oan chớ không
nói điều chi thêm nữa. Hương đảng đông đủ tra hỏi sãi nhỏ đủ điều, khi dọa, khi
khuyên nhủ rằng: Nếu nói thật thì làng cũng chứng cho để lập gia thất. Kẻ thì
mai mỉa: Sãi kia tu có trót đời không? Rốt cuộc vì không chịu xưng tội tình và
một mực kêu oan cho nên sãi Kính Tâm phải bị đem ra tra tấn.
Đứng trước cảnh thịt nát máu rơi và thấy trò bất tỉnh,
sư ông mới động mối từ tâm đứng ra xin bảo lãnh cho trò để sau này về nhà
khuyên nhủ dạy răn.
Thấy thế hương đảng cũng niệm tình ưng thuận cho
sư tiểu cùng về. Đến chùa, Sư ông dạy tiểu ra ở ngoài tam quan để tránh tiếng
không tốt cho chùa.
Thời gian qua, Thị Mầu đến ngày mãn nguyệt khai
hoa, hạ sinh đặng một mụn con trai. Nàng bèn bồng hài nhi đến cửa tam quan bỏ
đó rồi về, nói rằng: “Con của ngươi, đem trả cho ngươi.” Sãi Kính Tâm đương tụng
kinh nghe đứa nhỏ bị bỏ dưới đất giãy giụa khóc la, động mối từ tâm người bèn
ra ẵm đứa bé vào, mướn vú nuôi bên tự. Mẹ vò nuôi con nhện lắt lẻo qua ngày.
Hết thời trì kinh thì sãi Kính Tâm lại phải giữ
gìn bồng bế đứa trẻ. Nghe vậy, sư cụ mới vời sãi Kính Tâm vào mà trách rằng:
“Trước kia con nói rằng con bị hàm oan, mà nay như thế thì chính thầy đây cũng
phải nghi ngờ nữa là ai?”
Sãi Kính Tâm bèn bạch rằng: “Bạch sư phụ, khi xưa
sư phụ có dạy đệ tử rằng cứu đặng một người, phước đức hà sa. Đệ tử vâng lời thầy
mới cứu mạng đứa trẻ này, chớ kỳ trung con không có ý chi hết.”
Tuy vậy sãi Kính Tâm cũng không đặng phép vô ra
trong chùa để tránh tiếng cho chùa.
Đứa trẻ khi đặng hai, ba tuổi đã có vẻ thông minh
và giống sãi Kính Tâm như hệt. Khi hài nhi đúng ba tuổi thì sãi Kính Tâm đến
ngày phải theo Phật. Biết trước giờ phân ly, sãi Kính Tâm mới viết hai bức thơ
gởi lại, một kính gởi cho sư cụ, còn một bức thì gởi cho cha mẹ ruột. Khi sãi
Kính Tâm tắt hơi thì đứa nhỏ y như lời cha dặn đem bức thơ vào dâng cho sư cụ.
Xem thơ xong, sư ông rất ngậm ngùi, bèn phái vài vị
ni cô ra coi tẩm liệm. Khám xét xong thì mới hay sãi Kính Tâm là nhi nữ trá
hình.
Tin ấy truyền ra hương lân nhóm lại đòi cha con Thị
Mầu đến buộc tội cáo gian và phạt phải chịu tổn phí về các cuộc tống táng và
làm ma chay cho sãi Kính Tâm. Bằng chứng sờ sờ phú ông phải chịu, Thị Mầu xấu hổ
muôn phần bèn quyên sinh để trốn khổ nhục.
Đến ngày an táng sãi Kính Tâm thì thiên hạ đồng thấy
Phật hiện trên mây rước hồn sãi Kính Tâm là nàng Thị Kính. Hai vợ chồng Sùng
Ông và Thiện Sĩ đặng thơ và hay tin đau đớn này đồng có đến dự. Sau cuộc tống
táng vợ xưa Thiện Sĩ ăn năn lỗi trước bèn phát nguyện tu hành.
Tục truyền rằng Thiện Sĩ sau đắc quả thành con
chim ngậm xâu chuỗi bồ đề, đậu một bên Đức Phật Quan Âm, Đức Phật Quan Âm cũng
độ luôn con của Thị Mầu đắc quả hầu gần bên Ngài.
Sự tích
Quan Thế Âm Bồ tát với tích Bà Diệu Thiện hay Quan Âm Nam Hải
Trong kiếp cuối cùng của Đức Phật Quan Âm, Ngài hạ
phàm làm một vị công chúa Ấn Độ, con vua Linh Ưu, niên hiệu Diệu Trang.
Vào năm 2587 trước Công nguyên, bên Ấn Độ có một
tiểu quốc kêu là Hưng Lâm. Nhà vua trị vì nước ấy tên Linh Ưu lấy niên hiệu là
Diệu Trang. Phía Tây giáp ranh Thiên Trúc Quốc, Phía Bắc giáp ranh Xiêm La,
phía Đông giáp ranh Phật Chai Quốc, phía Nam giáp ranh Thiên Chơn Quốc. Trong
nước Hưng Lâm cảnh tượng thái hòa là nhờ có vua hiền, tôi giỏi, bá tánh chuyên
lo cày cấy, nông trang.
Chánh thê của nhà vua là bà hoàng hậu Bửu Đức. Từ
ngày nhà vua tức vị đến nay đã 40 năm rồi mà bà hoàng hậu chưa hạ sanh đặng vị
hoàng tử nào. Thấy thế bà lấy làm buồn và xin nhà vua đi cùng bà lên núi Huê
Sơn cầu tự. Núi Huê Sơn ở về hướng Tây. Trên núi ấy có một vị thần rất linh
thiêng. Ai cầu chi thì đặng nấy. Vua nghe theo, một ngày kia quân gia rần rộ,
xa giá nhắm Huê Sơn trực chỉ. Cầu tự xong về triều thì một ít lâu bà có thai và
đến ngày sanh đặng một vị công chúa đặt tên là Diệu Thanh. Cách một ít lâu
hoàng hậu lại hạ sanh một nàng công chúa tên là Diệu Âm và sau cuối sanh ra
nàng công chúa Diệu Thiện. Vị công chúa thứ ba này ngày sau tu hành đắc đạo lấy
hiệu là Quan Âm.
Vì nhà vua không có con trai nên vua nhất định
truyền ngai vàng lại cho một trong ba vị phò mã. Hai công chúa đầu là Diệu
Thanh và Diệu Âm thì nhà vua đã đính hôn cho hai vị quan to thinh danh nhất
trong triều. Trái lại nàng công chúa thứ ba là Diệu Thiện thì cương quyết không
chịu lấy chồng và nhất định phế trần đi tu để thành chánh quả. Nghe con quyết định
như thế nhà vua nổi cơn thịnh nộ và buộc nàng Diệu Thiện phải tuân lệnh xuất
giá. Thấy thế nàng mới xin vua cha nếu ý định nhà vua như vậy thì ít nữa xin
cho nàng kết hôn với một thầy thuốc và thưa rằng: “Ý con là muốn cứu chữa hàng
quan lại bất tài và ngu xuẩn, những tai nạn do sự nắng lửa mưa dầu, tuyết giá
mà ra, những tính xấu xa ích kỷ về nhục dục, các tật nguyền, bệnh hoạn do sự
già nua cằn cỗi mà ra, sự phân chia giai cấp, sự khinh rẻ kẻ nghèo và sự tư lợi.”
Nàng lại nói to lên rằng: “Chỉ có Đức Phật là được
chứng quả bồ đề, minh tâm kiến tánh.” Nghe vậy nhà Vua lại càng tức giận thêm
bèn hạ lệnh lột hết áo quần của công chúa và nhốt nàng vào huê viên để bị đói lạnh
mà chết. Công chúa không sờn lòng. Trái lại nàng cảm ơn vua cha đã phạt nàng
như thế và chỉ vui tươi mà chịu khổ hình. Các bà mệnh phụ được lệnh ra khuyến dụ
nàng hồi tâm tuân ý thánh chỉ. Nàng khư khư một mực và nhất định vào chùa Bạch
Tước ẩn tu, nhập thất tham thiền. Chùa Bạch Tước thuộc quận Long Thọ, tỉnh Nhữ
Châu. Hay tin ấy nhà vua không cấm cản chi, đinh ninh rằng ra nơi ấy một ít lâu
công chúa chịu không nổi với những nỗi khổ cực, sẽ chán nản mà về triều.
Nơi Bạch Tước Tự có mật lệnh của nhà vua phải buộc
nàng làm những công việc mệt nhọc nhất. Nàng vẫn cúi đầu vâng chịu, không một
tiếng than, là vì khi nàng làm phận sự có thần thánh giúp sức. Biết được thế
cho nên sư cụ chùa Bạch Tước mới cụ sớ về triều tâu vua mọi sự. Vua cha bèn
nghĩ ra một chước cốt làm nàng kinh khủng bỏ chùa mà về đền. Một bữa kia quân
lính đến bao vây và phóng lửa thiêu chùa bốn mặt. Sư cụ và tất cả ni cô kinh
tâm tán đởm chạy ngược chạy xuôi tầm phương tẩu thoát. Tiếng kêu trời kêu đất
inh ỏi! Nàng Diệu Thiện điềm tĩnh như thường. Nàng chỉ lâm râm cầu Đức Phật mà
nàng nguyện theo gương và xin Ngài đến cứu nàng. Nàng bèn rút trâm cài đầu đâm
vào họng và phun máu tươi lên không trung, tức thì mây kéo mịt mù, thiên hôn địa
ám, mưa xuống như cầm chĩnh mà đổ. Bị đám mưa to các ngọn lửa đỏ ngất trời kia
lần lần êm dịu rồi tắt. Thấy vậy quân chạy về phi báo. Nhà vua liền hạ lệnh bắt
nàng và đưa về đền.
Khi điệu nàng về tới, nhà vua dạy mở yến tiệc, bày
một cuộc lễ hội thật lớn để đem nàng trở lại quãng đời phong lưu. Nhưng các cuộc
bài trí ấy cũng không hiệu quả gì và cho đến những điều hăm dọa ghép nàng vào tử
hình cũng không thấm vào đâu. Cùng thế nhà vua mới hạ lệnh trảm quyết nàng và dạy
ba quân điệu nàng khỏi đền mới hành hình. Thần hoàng bổn cảnh liền tâu sự ấy
lên cho Ngọc Đế rõ. Đức Ngọc Đế hạ lệnh cho thần hoàng bổn cảnh giữ gìn hồn
nàng đừng cho nhập địa phủ. Giờ hành hình đến, giám sát vừa giơ gươm lên thì
gươm gãy làm hai. Giám sát bỏ gươm rút giáo toan đâm thì giáo lại gãy làm hai.
Giám sát chỉ còn một nước là xử giảo nàng (thắt cổ). Đến giờ hành hình thì có một
trận cuồng phong thổi tới, làm cho trời đất tối tăm mà chung quanh mình nàng
thì hào quang hiện ra sáng rỡ. Thần bổn cảnh liền hóa ra một con hổ, từ trong rừng
xanh nhảy ra và cõng thây nàng chạy thẳng vô núi. Những kẻ đi xem hoảng chạy tứ
tung. Quan quân và giám sát ảo não muôn phần, lật đật về triều tâu vua mọi sự.
Nhà vua không nao núng và lại cho rằng cọp tha thây là một sự trừng phạt nặng nề,
gán thêm vào sự trừng phạt của nhà vua để phạt nàng về tội bất hiếu và tội bất
tuân lệnh vua cha.
Nhờ huyền diệu ấy mà nàng DIệu Thiện tuy chết nhưng
xác vẫn còn nguyên. Lúc ấy nàng mơ màng như thấy một giấc chiêm bao, cơ hồ như
nàng đã lướt gió tung mây... Khi tỉnh lại nàng lấy làm lạ mà thấy mình ở vào một
thế giới không nhật nguyệt, tinh tú, không núi non, không người, không loài vật.
Bỗng chốc nàng thấy hiện ra trước mắt một vị mặc
áo màu xanh dương, hào quang chói rạng. Vị ấy đến trước mặt nàng, tay cầm một tờ
giấy dài và nói rằng: Vâng lệnh Diêm Chúa mời nàng xuống viếng Diêm Cung để thấy
rõ ràng cảnh khốn khổ và những hình phạt mà kẻ có tội phải chịu sau khi chết.
Nơi Diêm Cung mỗi khi nàng đi đến đâu nhờ sức thần
thông và đức từ bi thuyết kinh của nàng các hồn bị giam cầm đều đặng cứu rỗi và
thoát khỏi ngục môn hầu tái kiếp trở lại trần gian. Thập Điện Minh Vương cũng
ao ước đặng nghe nàng thuyết pháp. Chiều ý Thập Điện Minh Vương, nhưng nàng xin
rằng sau cuộc ấy các hồn tội nhân đều đặng phóng thích. Sau khi khoản ấy đã đặng
các vua ưng thuận thì nàng mới dùng hết phép thần thông của nàng mà thuyết
pháp. Trong nháy mắt chốn U Minh biến thành lạc cảnh và các âm hồn đều đặng trở
lại cõi trần. Thấy mười cõi U đồ đã trống trơn, Thập Điện Minh Vương mới lật đật
phán rằng: “Mười điện chúng ta không quyền giam cầm vong hồn nàng Diệu Thiện.”
Và tức khắc dạy đưa nàng trở lại dương gian.
Khi tỉnh dậy nàng Diệu Thiện lấy làm bối rối chưa
biết phải đi phương nào. Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn hiện ra trên mây dạy nàng phải
ra ở núi Phổ Đà, giữa Nam Hải thuộc cù lao Hương Đảo để tu thêm. Muốn đến đó phải
trải qua ba ngàn dặm đường. Bởi thế, Đức Phật Thế Tôn mới ban cho nàng một trái
bàn đào vườn Tây Vương Mẫu để nàng đỡ đói khát trong một năm và nhân có đặng
trường sinh. Nàng sắm sửa thượng trình. Thấy nàng sức yếu mà đường lại xa Đức
Trường Canh Thái Bạch mới truyền cho thần bổn cảnh hóa ra con hổ, cõng đưa nàng
ra nơi ấy. Thần bổn cảnh tuân y và trong giây phút nàng đã đến Phổ Đà Sơn.
Khi nàng tu đặng chín năm thì có một vị Phật Tiếp
Dẫn đến cho các vị thần trấn Phổ Đà Sơn hay rằng nàng Diệu Thiện tu hành đạo
pháp hiện nay cực kỳ cao siêu mà từ trước đến giờ chưa vị nào đạt được. Nàng đã
đứng trên tất cả chư vị Bồ Tát và cai quản các đấng ấy. Hôm nay, ngày 19 tháng
02 chúng ta phải yêu cầu vị ấy nhận một địa vị cao thượng hơn để cứu rỗi và ban
hạnh phúc cho quần sanh.” Sơn thần Phổ Đà Sơn bèn triệu tập tất cả các thần
tiên, thánh phật vùng ấy đến chầu và xưng tụng công đức của vị Bồ Tát mới vừa
chứng quả và từ nay người thường gọi là Quan Âm Như Lai, Quan Âm Nam Hải, Phật
Tổ Phổ Đà Sơn. Tân Bồ Tát ngự trên tòa sen và tiếp kiến các đấng thiêng liêng đến
bái kiến và khánh chúc. Lúc ấy chư thánh tiên mới định lựa một vị đồng tử để hầu
Ngài. May đâu lúc ấy có một vị trẻ tuổi xưng là Hoàn Thiện Tài nghĩa là người
chỉ có đọc kinh mà đặng đức lành phép lạ. Thiện Tài đồng tử thú nhận rằng vì mồ
côi cha mẹ chàng mới phát nguyện tu hành quy y Phật pháp nhưng chưa chứng quả.
Nay nghe tin Nam Hải Phổ Đà Sơn có Bồ Tát ngự nên quyết chí vượt qua mấy muôn dặm
đến đây để hầu Ngài và xin làm đệ tử. Trước khi ưng chuẩn lời nguyện ấy, Đức Bồ
Tát muốn thử tâm chí coi ra sao, Ngài bèn truyền cho sơn thần, thổ địa hóa làm
ăn cướp đến vây đánh Phổ Đà Sơn. Riêng về phần Ngài thì Ngài giả dạng sợ sệt,
kêu la cầu cứu và giả té xuống hố sâu. Thấy vậy Thiện Tài đồng tử chạy theo cứu
thầy và nhảy luôn xuống hố. Vì quyền năng pháp lực chưa đặng cao cho nên đồng tử
phải thiệt mạng. Bồ Tát liền dùng thần thông cứu tử. Khi đồng tử tỉnh dậy thì
thấy một cái xác bên mình, Bồ Tát cho biết đó là xác phàm của đồng tử và hiện
nay đồng tử đã bỏ xác phàm và nhập vào cõi thánh. Từ đó Thiện Tài đồng tử một lòng
phụng sự Bồ Tát trong sự cứu độ chúng sanh.
Sau lại Đức Bồ Tát có thâu làm đệ tử nữ vị cháu
gái của vua Nam Hải Long Vương tên là Long Nữ. Việc đã xảy ra như vầy. Ngày kia
đệ tam thái tử con vua Long Vương hóa làm con cá, dạo chơi trên mặt biển, chẳng
may vướng phải lưới của ông chài. Ông chài bắt cá ấy đem bán ngoài chợ. Ngự
trên liên đài Bồ Tát biết rõ việc ấy, bèn sai Thiện Tài Đồng tử giả dạng thường
nhơn đến mua cá ấy đem ra biển phía Nam thả. Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử
con mình mới định dưng cho Bồ Tát một cục ngọc ban đêm chiếu sáng để giúp Ngài
đọc sách không cần đèn, và dạy Long Nữ là con gái của đệ tam thái tử phải bổn
thân đem ngọc đến dưng. Đến nơi dưng ngọc xong, Long Nữ rất cảm phục huyền năng
và đức độ của Bồ Tát và cầu xin Ngài cho theo hầu Ngài cùng quy thuận Phật
pháp. Bồ Tát ưng cho. Từ ấy Long Nữ đặng thâu làm đệ tử hiệp cùng với đồng tử
Thiện Tài mà phụng sự Ngài.
Từ khi Diệu Trang Vương dùng chước độc mà hại nàng
Diệu Thiện thì nhà vua phải một chứng bệnh hết sức khổ sở.
Thân thể nhà vua phải thúi tha đầy ung thư ghẻ chốc
làm cho nhà vua nhức nhối đau đớn vô hồi. Đức Bồ Tát phóng đại quang minh biết
rõ mọi sự. Nhà Vua lúc ấy hạ lệnh đăng bảng cầu danh y, Bồ Tát bèn giả dạng một
nhà sư già đến xin chữa bệnh.
Khi đến trước mặt vua thì nhà sư bèn tâu phải kiếm
cho đặng đôi mắt và một đôi cánh tay của thân nhân nhà vua mới trị đặng bệnh,
nhưng mà phải ra núi Phổ Đà mới kiếm đặng hai món ấy. Vua liền phái hai vị quan
cấp tốc đến Phổ Đà Sơn để tìm hai món vừa nói. Thấy vậy hai vị phò mã rất bất
bình và âm mưu định giết nhà sư và sau đó thí vua mà soán ngôi.
Bồ Tát rõ sự việc ấy và đã sai Thiện Tài đồng tử
giả làm tên thị vệ hầu bên cạnh vua. Khi một tên quân của hai vị phò mã dưng
cho vua một chén thuốc độc nói dối là của nhà sư dạy đem cho vua ngự thì tên thị
vệ kia tiếp bưng chén ấy và sẵn tay làm đổ ngay xuống đất. Đang lúc ấy một người
lẻn vào phòng nhà sư để thích khách. Bồ Tát bèn dùng thần thông làm cho tên ấy
tê liệt không còn hoạt động nữa và bị bắt trói. Cơ mưu bại lộ, hai vị phò mã vì
sợ bị khổ hình nên đã uống độc dược tự tử. Hai vị công chúa phải tội liên can đều
bị biếm vào lãnh cung đời đời cấm cố. Hai nàng mới ăn năn, noi gương em mình là
Diệu Thiện lo tu hành. Khi hai nàng đã tấn hóa nhiều về con đường tu niệm thì Bồ
Tát và Thiện Tài đồng tử hóa ra hai thớt tượng bạch mà đưa hai vị công chúa đến
cảnh Phật Đài để tránh xa mùi tục lụy.
Từ ngày hai vị sứ giả phụng mệnh nhà vua, tuôn mây
lướt sóng trải biết bao khổ cực mới đến Phổ Đà Sơn, Thiện Tài đồng tử phụng lệnh
Bồ Tát hiện ra tiếp rước. Hai sứ giả trình bày mọi sự rồi được đến yết kiến Bồ
Tát. Bồ Tát Diệu Thiện ngồi trên liên đài bèn trao cho hai vị sứ giả con mắt
bên tả và cánh tay bên tả của mình. Việc xong sứ giả cáo tạ rồi hồi trào, và
dưng lên cho vua và hoàng hậu hai món đã kiếm đặng. Hoàng hậu nhìn lên cánh tay
tả thấy có nốt ruồi và sau khi nghe sứ giả tả dung mạo người đã cho nhà vua hai
vật ấy thì quả quyết đó là con mình và đau đớn không ngần.
Nhà sư bèn trộn hai món ấy với ít vị thảo dược rồi
đem tất cả đắp lên nửa thân bên trái của nhà vua thì nhà vua tức khắc khỏi đau
phía bên mặt. Thấy thế nhà sư bèn tâu vua xin sứ giả ra Phổ Đà Sơn tìm cho đặng
con mắt phía tay mặt và cánh tay mặt. Sứ giả vâng lệnh ra đi, không bao lâu đem
về dưng đủ hai món. Nhà sư cũng làm y như trước thì nửa thân bên phải của nhà
vua khỏi ngay. Từ ấy vua Diệu Trang hoàn toàn lành bệnh. Trong triều, ngoài quận
ai ai cũng đồng biết rằng nhờ con chí hiếu là Diệu Thiện mà nhà vua mới khỏi bệnh
ngặt nghèo.
Sau khi khỏi chết vua cùng hoàng hậu cám ơn cứu tử,
định ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng trình gặp không biết bao là
nguy nan, nhưng đều nhờ Bồ Tát dùng phép thần thông mà cứu khỏi.
Đến nơi vua cùng hoàng hậu thấy Bồ Tát tọa thiền
trên liên đài mất cả hai mắt và hai tay. Nhìn biết là con mình nhà vua ăn năn
xúc động vô cùng bèn quỳ xuống cầu nguyện cho con đặng sống và đặng huờn y hai
con mắt và hai tay. Khẩn nguyện xong thì nhà vua và hoàng hậu thấy con mình hiện
trước mắt, tay mắt đủ, hình dạng mạnh khỏe như xưa.
Thấy phép thần thông vô biên của Bồ Tát vua cùng
hoàng hậu nhất định lìa nơi điện ngọc đền vàng, lánh mình trần tục tìm đàng
thiên thai.
-ST-