SỰ TÍCH ĐỨC DI LẶC BỒ TÁT
Đức Di Lặc là một vị Phật thứ năm trong Hiền kiếp
(Bốn vị Phật trong Hiền kiếp đã ra đời, kể ra sau đây: 1. Đức Cấu Lưu Tôn, 2. Đức
Câu Na Hàm, 3. Đức Ca Diếp, 4. Đức Thích Ca Mâu Ni) để nối ngôi Phật Thích Ca,
ra đời mà giáo hóa chúng sanh.
Nhưng số kiếp chưa đến, Ngài còn ở trên cung Trời
Đâu Suất, thường hay hóa thân trong mười phương thế giới mà thuyết pháp độ
sanh.
Khi Ngài ứng tích tại Song Lâm, thì tên của Ngài
là: Phó Đại Sĩ, và lúc Ngài hóa thân ở Nhạc lâm, thì hiệu của Ngài là: Bố Đại
Hòa Thượng.
Công việc hành tàng bước đường lai khứ trong hai
khoảng chuyển sanh ấy, nào là lời phương tiện quyền xảo, nào là lời vi diệu
pháp âm, làm cho người đời đều tỉnh giấc mộng mà quy đầu về Chánh giáo.
Nay xin lược thuật sự tích lúc Ngài hóa thân làm vị
Bố Đại Hòa Thượng ra sau đây cho quý vị độc giả xem.
Đương thời kỳ nước Lương thuộc về đời Ngũ quí,
Ngài ứng tích ở nơi Châu Minh, tại huyện Phụng hóa, thân hình khác hơn người thế
tục, trán thì nhăn, bụng thì lớn, và hình vóc mập mạp.
Lúc đó không ai biết tên họ của Ngài, chỉ thấy
Ngài thường mang theo một cái túi vải mà thôi, nên người kêu là: Bố Đại Hòa Thượng.
Tánh Ngài hay khôi hài và chỗ ăn và nằm ngày đêm
không có nhứt định, mà Ngài đi đâu rồi cũng thấy trở về Chùa Nhạc Lâm mà trú ngụ.
Mỗi khi đi đường, Ngài thường cầm gậy Tích trượng
và mang cái túi bằng vải, không khi nào rời hai vật ấy ra khỏi mình, lại có 18
đứa con nít (là lục căn, lục trần, và lục thức) nhỏ thường đeo đuổi theo một
bên mà diễu cợt làm cho Ngài tức cười mãi mãi. Thường khi Ngài đi vào chốn thôn
quê hay là nơi đồng ruộng, hễ ai cho những vật gì, khi Ngài ăn xong, còn dư lại
bao nhiêu đều bỏ vào túi.
Lúc đi tới nơi chợ quán, thì Ngài ngồi xuống, mở
túi lấy những đồ ăn dư đưa lên, kêu mấy người đứng xung quanh mà nói rằng: “Các
ngươi xem coi đó là cái gì ?“ Ngài nói rồi một giây lâu bỏ đồ ấy vô túi mà mang
đi. Còn có khi Ngài gặp Thầy Sa Môn đi ngang qua, Ngài ở sau vỗ lưng một cái,
làm cho Thầy Sa Môn giựt mình, ngó lại mà hỏi rằng: “Hòa Thượng làm cái gì vậy
?”
Ngài liền giơ tay nói: “Ngươi cho Ta xin một đồng
tiền”.
Thầy Sa Môn thấy vậy, bèn nói rằng: “Nếu tôi hỏi một
điều mà Hòa Thượng nói đặng, thì tôi cho”.
Ngài liền để cái túi xuống, chấp tay đứng một bên,
rồi lấy túi mang trở lại mà lật đật quày quả đi liền. Một bửa kia, Ngài đi vào
trong đám đông người, có một ông Tăng hỏi Ngài rằng: “Hòa Thượng ở trong đám
đông người làm chi đó?”
Ngài trả lời rằng: “Ta đương đợi một người đến”
Ông Tăng hỏi: “Hòa Thượng đợi ai ?”
Ngài bèn thò tay vào túi lấy một trái quít đưa cho
ông Tăng.
Ông vừa giơ tay ra lấy trái quít, Ngài liền thục
tay lại mà nói rằng: “Ngươi chẳng phải người ấy”
Lại có một bửa, ông Tăng chợt thấy Ngài đứng bên
đường gần chợ, bèn hỏi rằng: “Hòa Thượng ở đây làm chi?”
Ngài liền đáp rằng: “Ta đi hóa duyên”.
Ông Tăng thấy vậy mới nói rằng: “Hóa duyên ở đâu
nơi ngã tư như vậy?”
Ngài trả lời: “Ngã tư chính là chỗ Ta muốn hóa
duyên”.
Ông Tăng vừa muốn hỏi chuyện nữa, thì Ngài liền
mang cái túi vải rồi cười ngất mà đi một hơi.
Có một khi, ông Bạch Lộc Hòa Thượng gặp Ngài, liền
hỏi rằng: “Thế nào gọi là: cái túi vải?”
Ngài nghe hỏi liền để túi xuống, rồi khoanh tay mà
đứng.
Ông Bạch Lộc Hòa Thượng lại hỏi rằng: “Công việc của
cái túi vải ra làm sao ?”
Ngài liền mang túi mà đi, không trả lời chi hết.
Có một bửa kia, ông Bảo Phước Hòa Thượng gặp Ngài
hỏi rằng: “Thưa Ngài! Duyên cớ tại sao mà xưa Đức Tổ Sư ở bên Tây phương qua
đây là có ý gì ?”
Ngài nghe hỏi liền để cái túi vải xuống, rồi đứng
tự nhiên.
Ông Bảo Phước Hòa Thượng lại hỏi nữa rằng: “Chỉ
như vậy, hay là còn có cái gì nữa hay không?”
Ngài nghe hỏi như thế, bèn lấy túi vải mang trở lại
mà đi, không hề trả lời.
Từ đó về sau, hễ Ngài đi đến đâu, thì người ta
tranh nhau mà chận đón và níu kéo, đặng mời Ngài vào nhà, chớ không cho đi
luôn. Bởi vậy cho nên trong các quán rượu và tiệm cơm, người người tha hồ ăn uống
no say, không có chút gì nhàm chán, vì Ngài vào đâu thì buôn bán đắt đến bội phần.
Lúc nào gặp trời mưa, thì tản sáng Ngài ngủ dậy
mang guốc cao gót, đi ra nằm ngửa trên cái cầu to, co chân lại dựng hai bắp vế
lên, thì ngày ấy nắng. Còn khi nào trời nắng, mà Ngài mang đôi dép cỏ đi ra
ngoài đường, ngày ấy trời lại mưa.
Thường bữa Ngài hay tới nhà một nông phu kia mà ăn
cơm. Có một hôm người vợ tên ấy thấy vậy nổi giận mà rầy rằng: “Đương lúc lo việc
ruộng nương rộn ràng không xiết, mình có công đâu mà nuôi lão Hòa Thượng điên
đó hoài! “
Ngài nghe nói mấy lời ấy, liền đem cơm đổ dưới gốc
cây dâu ở bên nhà rồi bỏ đi.
Cơm ấy tự nhiên hoàn lại trong nồi của người nông
phu. Hai vợ chồng thấy vậy rất kinh, bèn cùng nhau đi kiếm Ngài, rồi lạy lục mà
xin sám hối.
Có một khi, đương buổi mùa hạ, khí trời nóng nực,
Ngài cởi quần áo để trên bờ mà xuống khe tắm.
Lũ trẻ khuấy chơi, bèn lén lại lấy cả áo quần.
Đương lúc tắm, Ngài thấy vậy thì lật đật để mình trần truồng mà rượt theo bọn
con nít. Mấy người ở trên bờ xúm nhau lén coi, thì thấy âm tàng của Ngài như trẻ
nhỏ vậy.
Gần chỗ đó có tên Lục Sanh, nghề vẽ rất tinh xảo.
Người ấy thấy Ngài, bèn vẽ một bức tượng in hệt mà dán tại Chùa, nơi vách nhà
Đông.
Bửa nọ Ngài đi ngang qua bên vách, thấy tượng ấy
liền khạc nhổ rồi bỏ đi.
Khi Ngài ở tại xứ Mân Trung, có một người cư sĩ họ
Trần, thấy Ngài làm nhiều việc kỳ thần, nên đãi Ngài rất cẩn trọng.
Lúc Ngài từ giã ông Trần cư sĩ mà đi qua xứ Lưỡng
Chiết, ông muốn rõ tên họ Ngài, bèn hỏi rằng: “Thưa Hòa Thượng! Xin cho tôi biết
họ Ngài là chi, sanh năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào, và xuất gia đã bao
lâu rồi?”
Ngài đáp rằng: “Ta tỏ thiệt cho ngươi rõ rằng Ta
chính là họ Lý, sanh ngày mùng tám tháng hai. Ta chỉ biểu hiệu cái túi vải này
mà để độ đời đó thôi. Vậy ngươi chớ tiết lộ cho ai biết”.
Ông Trần cư sĩ nghe nói như vậy, bèn thưa rằng:
“Hòa thượng đi đâu, nếu có ai hỏi việc chi thì Ngài trả lời làm sao cho hợp lý,
chớ tùy thuận theo người thì không khỏi bàng nhơn dị nghị tiếng thị phi.
Ngài bèn đáp một bài kệ rằng:
Ghét thương phải quấy biết bao là,
Xét nét lo lường giữ lấy ta;
Tâm để rỗng thông thường nhẫn nhục,
bửa hằng thong thả phải tiêu ma;
Nếu người tri kỷ nên y phận,
Dẫu kẻ oan gia cũng cộng hòa;
Miễn tấm lòng này không quái ngại,
Tự nhiên chứng đặng “Lục ba la”
Ông Trần cư sĩ lại hỏi rằng: “Bạch Hòa thượng!
Ngài có pháp hiệu hay không?”
Ngài liền đọc bài kệ mà đáp rằng :
Ta có cái túi vải,
Rỗng rang không quái ngại;
Mở ra khắp mười phương,
Thâu vào Quan tự tại.
Ông Trần cư sĩ hỏi rằng: “Hòa thượng đi đây có đem
đồ hành lý hay không?”
Ngài đáp bài kệ :
Bình bát cơm ngàn nhà,
Thân chơi muôn dặm xa;
Mắt xanh xem người thế,
Mây trắng hỏi đường qua.
Ông Trần cư sĩ thưa: “Đệ tử rất ngu, biết làm sao
cho đặng thấy tánh Phật”.
Ngài bèn đáp bài kệ:
Phật tức tâm, tâm ấy là Phật,
mười phương thế giới là linh vật;
Tung hoành diệu dụng biết bao nhiêu,
Cả thảy chẳng bằng tâm chơn thật.
Ông Trần cư sĩ thưa rằng: “Hòa thượng đi lần này
nên ở nơi chùa, chớ đừng ở nhà thế gian.
Ngài bèn đáp bài kệ rằng:
Ta có nhà Tam Bảo,
Trong vốn không sắc tướng;
Chẳng cao cũng chẳng đê,
Không ngăn và không chướng;
Học vẫn khó làm bằng,
Cầu thì không thấy dạng;
Người trí biết rõ ràng,
Ngàn đời không tạo đặng;
Bốn môn bốn quả sanh,
Mười phương đều cúng dường.
Ông Trần cư sĩ nghe bài kệ lấy làm lạ, liền đảnh lễ
Ngài mà thưa rằng: “Xin Hòa thượng ở nán lại một đêm mà dùng cơm chay với tôi,
đặng tỏ dấu đệ tử hết lòng cung kính, xin Ngài từ bi mà hạ cố”.
Đêm ấy Ngài ở lại nhà Trần cư sĩ. Đến khi đi, thì
Ngài viết một bài kệ dán nơi cửa:
Ta có một thân Phật,
Có ai đặng tường tất;
Chẳng vẽ cũng chẳng tô,
Không chạm cũng không khắc;
Chẳng có chút đất bùn,
Không phải màu thể sắc;
Thợ vẽ, vẽ không xong,
Kẻ trộm, trộm chẳng mất;
Thể tướng vốn tự nhiên,
Thanh tịnh trong vặc vặc;
Tuy là có một thân,
Phân đến ngàn trăm ức.
Khi Ngài đi đến quận Tứ minh, Ngài thường giao du
với ông Tưởng Tôn Bá một cách rất thân mật, Ngài có khuyên bảo ông mỗi ngày trì
niệm câu chú: “Ma ha bát nhã ba la mật đa”. Vì vậy người ta đều kêu ông Tưởng
Tôn Bá là: Ma ha cư sĩ.
Có một ngày nọ, ông Ma ha cư sĩ cùng Ngài đồng tắm
dưới khe Trường đinh. Khi Ngài đưa lưng bảo ông Ma Ha kỳ giùm, thì ông thấy nơi
lưng Ngài có bốn con mắt rực rỡ chói lòa, bèn lấy làm kinh dị vô cùng. Ông liền
đãnh lễ Ngài mà nói rằng: “Hòa thượng quả là một vị Phật tái thế”.
Ngài liền khoát tay bảo nhỏ rằng: “Ngươi chớ nói
tiết lộ. Ta cùng ngươi ở với nhau đã ba bốn năm nay, vốn là có nhân duyên rất lớn,
rồi đây Ta sẽ từ biệt ngươi mà đi, vậy ngươi chớ buồn rầu thương nhớ “.
Ngài nói rồi, bèn về nhà ông Ma Ha cư sĩ mà hỏi rằng:
“Ý ngươi có muốn giàu sang hay không?”
Ông Ma Ha cư sĩ thưa rằng: “Sự giàu sang như lùm
mây nổi, như giấc chiêm bao, có cái gì là bền lâu chắc chắn đâu, nên tôi nguyện
làm sao cho con cháu tôi đời đời được miên viễn mà thôi”.
Ngài bèn lấy cái túi của Ngài thọc tay vào móc ra
một cái túi nhỏ, một cái hộp, và một sợi dây, liền đưa cho ông Ma Ha cư sĩ mà
nói rằng: “Ta cho ngươi mấy vật này mà từ biệt. Song Ta căn dặn ngươi phải giữ
gìn cho kỹ càng mà làm biểu tín những việc hậu vận của nhà ngươi”.
Ông Ma Ha cư sĩ vâng lãnh mấy món ấy mà chẳng rõ
được là ý gì. Cách vài bữa sau Ngài trở lại nhà ông mà hỏi rằng: “Nhà ngươi có
hiểu được ý Ta hay không?”
Ông thưa rằng: “Thưa Ngài! Đệ tử thiệt chẳng rõ”.
Ngài nói rằng: “Đó là Ta muốn con cháu nhà ngươi
ngày sau cũng như mấy vật của Ta cho đó vậy”.
Nói rồi Ngài bèn từ giã mà đi liền.
Đến sau, quả nhiên con cháu của ông Ma Ha cư sĩ được
vinh hoa phú quý, hưởng lộc nước đời đời. Đó là mấy vật của Ngài cho có hiệu
nghiệm như vậy.
Nhằm ngày mùng ba tháng ba, năm thứ ba, niên hiệu
Trịnh Minh, Ngài không tật bệnh gì cả, ngồi trên bàn thạch, gần nơi mái chùa Nhạc
Lâm mà nhập diệt.
Nhắc lại khi Ngài chưa nhập diệt, có ông Trấn Đình
Trưởng thấy Ngài hay khôi hài không lo sự gì cả, nên mỗi lần gặp Ngài thì buông
lời cấu nhục, rồi giựt cái túi vải mà đốt.
Hễ bữa nay đốt rồi, thì qua ngày sau ông Trấn Đình
Trưởng cũng thấy Ngài mang cái túi ấy như cũ. Ông nổi giận đốt cháy rụi luôn đến
ba lần, cũng vẫn thấy Ngài còn mang còn mang cái túi vải đó.
Từ đó về sau, ông Trấn Đình Trưởng lấy làm lạ, nên
đem lòng khâm phục Ngài không dám khinh dễ nữa.
Khi Ngài nhập diệt, thì ông Trấn Đình Trưởng lo
mua quan quách mà tẩn liệm thi hài, là cố ý chuộc tội lỗi của ông ngày trước.
Nhưng đến chừng đi chôn, thì người khiêng rất đông, mà cứ cái quan tài lên
không nổi.
Trong bọn ấy có một người họ Đồng, ngày thường tỏ
lòng tôn kính Ngài một cách rất trọng hậu, nên thấy việc linh hiển như vậy, liền
vội vã mua cái quan tài khác, rồi liệm thi hài của Ngài lại. Đến khi khiêng đi,
thì số người cũng bấy nhiêu đó, mà khiêng nhẹ phơi phới như bông. Ai nấy thấy vậy
cũng đều kinh sợ và cung kính.
Lúc đó các người trong quận thiết lập ra một hội rất
lớn, xây tháp cho Ngài ở nơi núi Phong Sơn. Núi ấy toàn là đá lởm chởm, hòn
cao, hòn thấp, trong mấy hang đá đều là chỗ di tích của Ngài còn lưu truyền lại,
nào là chỗ để tích trượng, nào là chỗ để bình bát, v.v..
Những chỗ sâu, chỗ cạn, chỗ lớn, chỗ nhỏ, hình tượng
giống như cái bình bát, đều có nước đầy hoài, dẫu cho Trời đại hạn đi nữa, thì
cũng chẳng có lúc nào khô kiệt.
Thiệt là nhiều việc anh linh hiển hách vô cùng!
SỰ TÍCH ĐỨC DI LẶC BỒ
TÁT
(ĐỜI KHÁC)
Hồi đời Lục Triều, Đức Di Lặc lại ứng tích làm phó
Đại sĩ ở tại Chùa Song Lâm một thời kỳ nữa.
Khi Ngài ra mắt Lương Võ Đế, vua liền hỏi Ngài rằng:
“Xin Đại sĩ cắt nghĩa cho quả nhơn nghe làm sao kêu là: Đạo?”
Ngài liền bạch rằng: “Tâm thiệt là Đạo”, tôi xin
chứng nghiệm như vầy, thì bệ hạ đủ hiểu.
Khi bệ hạ chưa lên ngự tại điện này, trong tâm lúc
ban đầu chưa khởi niệm, bổn trí vẫn tự nhiên mà được diệu tịnh quang huy, sáng
suốt hiện buổi nay, rực rỡ đến thuở trước, và đầy lấp tất cả cõi Thái hư, cái tịnh
quang ấy muôn đời không sanh, vĩnh kiếp không diệt, chẳng phải Thánh mà cũng chẳng
phải Phàm, không thúc phược mà cũng không giải thoát.
Đó là tâm thể rất mầu nhiệm và rất vắng lặng.
Ngoài cái tâm không có đạo gì riêng khác, và ngoài đạo cũng không có tâm nào
phân biệt nữa, vì thế cho nên mới gọi: “tâm là đạo”.
Vua Võ Đế lại hỏi nữa rằng: “Vậy chớ Đại sĩ có tôn
ai làm Thầy hay không?”
Ngài bạch rằng: “Thầy thì không có ai là Thầy của
bần đạo, còn tôn thì bần đạo cũng không có tôn ai, đến việc tùng sự, thì cũng
không có tùng sự với người nào cả”.
Vua Võ Đế nghe Ngài nói như vậy, thì biết là một vị
Bồ Tát lâm phàm, nên càng tôn trọng Ngài một cách rất đặc biệt.
Đoạn Ngài lại thưa với Vua rằng: “Bệ hạ ngày nay
mà đặng hưởng điều tôn vinh như vầy, nguyên nhân cũng là một vị Bồ Tát hạ trần
mà cứu thế.
Vậy xin Bệ hạ phải mở thông ý địa, nên tự lượng
nơi mình, tâm để cho thanh tịnh, đừng trước nhiễm vật gì, lấy đó làm căn bản, cần
nhứt phải dùng chỗ hư linh làm cơ sở, lấy sự vô tướng làm nguyên nhơn, nguyện vọng
chí thành cầu cho đạt tới chỗ Niết bàn mà làm cực quả.
Nếu bệ hạ thi thố những phương pháp trị quốc, thì
phải dùng chánh pháp mà sửa trị trong thế gian, và thi hành những điều nhơn đức,
đặng làm cho lê dân cảm hóa.
Trong triều thì trọng dụng những người hiền tài mà
trừ khử mấy kẻ cưu lòng gian nịnh, còn ngoài thì thi nhơn chánh đến kẻ quan quả,
cô độc, bỏ những hình phạt trừng trị nặng nề, và ban chánh lịnh cho có nghiêm
minh trật tự. Nếu Bệ hạ trị vì trong thiên hạ, thi nhơn bố đức được như thế,
thì kẻ xa người gần đều gội nhuần ơn đức vô cùng vô tận. Chừng đó việc can qua
phải dứt, mà trong đội ngũ lại ninh bình, thì ngôi trời được hùng tráng mà an
hưởng cuộc thái bình. Nếu chánh sách thi thố được công hiệu như thế, thì Bệ hạ
thiên cơ đã thần diệu, lại còn nối ngôi quốc tổ được lâu dài nữa. Đó là bần đạo
hi vọng sao cho Bệ hạ được như vậy”.
Có một ngày kia, ông Lưu Trung Thừa ngồi tại chỗ
trạm dịch với Ngài, thoạt thấy có Thánh giá vừa đến, liền lật đật đứng dậy làm
lễ, còn Ngài ngồi yên lặng một chỗ.
Khi Thánh giá qua khỏi rồi, ông Lưu Trung Thừa bèn
hỏi Ngài rằng: “Theo ý tôi tưởng, Ngài chẳng chịu làm tôi với Thiên tử, không
muốn làm bạn với Chư hầu, cớ sao mà lại ngã mạn như vậy, xin Ngài nói cho tôi
rõ”.
Ngài liền đáp rằng: “Để bần đạo giải cho ông rõ.
Phàm việc kỉnh mà biểu lộ ra hình tướng, thì không có tánh kỉnh, còn bề ngoài
chẳng cử động sự kỉnh về lễ nghe tham bái, thì thiệt trong tâm có ẩn điều kỉnh
vô giá. Bần đạo thấy Thánh giá mà động thân, thì pháp địa tự nhiên cũng rúng động.
Hễ pháp địa rúng động, thì tất cả các pháp cũng chẳng an nhẫn, nếu các pháp chẳng
an nhẫn, tức là không có kỉnh, nên bần đạo vẫn ngồi tự nhiên là vậy đó”.
Ông Lưu Trung Thừa nghe Ngài nói như thế, thì rất
kỉnh phục.
Vua Lương Võ Đế biết Ngài là một vị Bồ Tát tái
lai, nên thiết lập một chỗ pháp hội rất nghiêm trang, rồi thỉnh Ngài lên diễn
kinh cho bá tánh nghe.
Khi trần thiết xong rồi, Ngài lên ngồi trên pháp
tòa, lẳng lặng làm thinh được giây phút, chớ không nói một lời chi cả.
Trong đám người đến nghe kinh đó, có một vị Thái tử
thấy vậy mới hỏi Ngài rằng: “Thưa Ngài! Đáng lẽ chỗ Chư Thiên nhơn cưu hội đây,
Ngài phải giảng giải cho mọi người rõ thấu lẽ chơn chánh của Phật, đặng nhờ đó
mà tu học mới phải, cớ sao Ngài làm thinh mà không biện luận nghĩa lý chi, lại
vội xuống pháp tọa như vậy ?”
Ngài liền trả lời rằng: “Phàm việc gì nói hay là
nín, đều thuộc về Phật sự cả. Như thế có phải làm đúng theo Phật lý hay không?
Vậy mà ông còn buộc tôi nói năng làm chi nữa”.
Thái tử nghe mấy lời bèn làm thinh, trong lòng
càng khâm phục Ngài vô cùng.
Cách ít lâu, Ngài ra mắt vua, rồi quì xuống mà tâu
rằng: “Muôn tâu bệ hạ! Bần đạo có như ý bửu châu và thanh tịnh giải thoát, chiếu
diệu rõ rệt đến mười phương. Nếu Bệ hạ chịu thọ lãnh mấy vật ấy, thì có ngày sẽ
chứng đến quả Bồ đề. Vả lại các pháp chẳng phải có, mà cũng chẳng phải không,
phàm vật gì thuộc về hữu tình đồng quy nơi thiệt tế. Các việc trong thế gian đều
là bức tranh huyễn hóa, rốt cuộc rồi hoàn về chỗ không, cũng ví như trăm sông tuy
phân ra muôn dòng ngàn mạch, nhưng tóm lại cũng chảy về biển.
Pháp Thế gian và pháp Xuất thế gian cũng chẳng qua
là lý chơn như. Vì lý chơn như thiệt không có sanh và không có diệt, nên không
có Niết bàn, tam thế cũng bình đẳng, mười phương đều thanh tịnh. Nếu lấy phần
thanh tịnh bình đẳng ấy làm sự nhiêu ích cho các giống hữu tình, thì được đồng
lên bờ giác ngạn.
Nếu chỗ sắp đặt phương pháp đặng như thế, thì cuộc
trị bình trong thiên hạ sẽ hóa ra cảnh giới trang nghiêm. Đó là Bệ hạ dùng diệu
pháp mà tế độ nơi đời, được như vậy thì các khác nào như một vị Từ Bi Vương tái
thế”.
Vua Lương Võ Đế nghe mấy lời của Ngài biện giải,
càng thêm tôn sùng kính trọng hơn nữa.
Khi Ngài ở tại Chùa Song Lâm, thấy Kinh tạng chứa
đầy, Ngài biểu mấy đạo chúng đem từ cuốn mà tả ra. Bổn ý của Ngài muốn khiến
cho kẻ sơ địa phàm phu nhờ công đức chuyển kinh đó mà đạt tới nơi chánh chơn của
Phật.
Bởi vậy trong thiên hạ, duy có chỗ Song Lâm, thì
Thiên Long thường ủng hộ, nên kinh tạng được toàn bổn mà lưu truyền đời sau.
Thoạt một ngày kia, có một làn định quang kim túc
của Đức Thích Ca, mùi thơm bát ngát, từ phương đông bay đến mà nhóm nơi mình của
Ngài.
Bỗng nhiên có tiếng xướng rằng: “Phó Đại Sĩ xuất
hiện ra đây, là thay thế cho Đức Thích Ca mà thuyết pháp, ngồi trên chỗ Long
Hoa thắng hội mà chỉ rõ cái bổn nguyện từ mẫn của Đức Văn Thù và xiển dương huệ
tập phổ thế của Đức Quan Âm”.
Rõ ràng Ngài cũng như bực y vương, đại thí những
lương phương diệu tể mà điều trị tất cả bịnh vô minh phiền não. Thiệt là Ngài
có công phu rất lớn và nhiều phương pháp khởi tử siêu sanh.
Có một bửa kia, khí trời nóng nực, Ngài ra ngoài
gành biển mà hóng mát, dòm thấy dưới mé có một vùng quanh co theo bờ, và dân cư
tại đó chỉ làm được ruộng muối mà thôi. Hễ đến thời tiết mùa thu, thì nước biển
tràn lên linh láng, không thế nào mà ngăn cản cho đặng.
Ngài thấy vậy, liền nói với những người bổn xứ rằng:
“Bần đạo muốn làm sao cho chỗ này thành ra ruộng tốt, để cho bá tánh cày cấy đặng
nhờ đó mà an cư lạc nghiệp”.
Dân chúng nghe mấy lời ấy, đều cười rộ lên mà nói
rằng: ” Ông này thiệt điên cuồng! Thuở nay thiền biển mà ai làm thành ruộng cho
đặng bao giờ ?”
Ngài thấy dân chúng không đem lòng tin, liền lấy
bao đựng cát đem chất xây giáp vòng như vách lũy mà bao ngạn luôn bãi cát ấy.
Lạ thay! Trọn một vùng bờ đê của Ngài làm đó, cách
ít lâu cứng cũng như đá vậy, ngăn được ngọn nước thủy triều ngoài biển, không
thế nào chảy vô được nữa, nhưng hồi Ngài làm đó có chia ra ba chặng, để ngừa
khi Trời hạn và nước lụt.
Đến sau, nội trong khu đất ấy đều thành ra ruộng cả,
ước chừng hơn hai ngàn mẫu, thường năm cày cấy đặng mùa luôn luôn. Dân cư trong
xứ mỗi năm gặt lúa rồi, trích ra một phần ba để cung cấp cho tăng đồ trong các
Chùa lân cận, mua chim cá mà phóng sanh, và làm nhiều việc phước thiện khác nữa.
Hiện nay mấy cái bờ bằng cát của Ngài làm đó hằng
bền chắc, không có hư rã chút nào.
Thiệt là linh cảm thay chỗ di tích của bực Đại
Thánh ngày xưa! Cho nên dân cư ở dọc theo mé biển ấy đều được phong y túc thực
luôn luôn, cùng nhau lập Chùa thờ Ngài và truy tặng ruộng ấy là “phước điền”.
Sau Ngài qua phía Nam núi Phong Sơn mà chỉ điểm những
chỗ ẩn tích nơi thâm khê cùng cốc, rồi mấy nơi ấy lần lần trở nên phong cảnh rất
thiên nhiên và nét xuân quang bốn mùa đều xuất sắc.
Bửa nọ, Ngài đi chơi tới xứ Bắc thượng, chợt thấy
một người đương sửa soạn làm thịt loài súc.
Ngài lật đật chạy lại can rằng: “Bần đạo xin tỏ
cho nhà ngươi nghe. Tất cả loài súc sanh, nguyên nhân cũng là người thế gian,
chớ không phải khác đâu, vì tạo ác nghiệp rất nặng nề, nên nay phải chịu khổ quả
như vậy. Thoảng như mình làm điều phước thiện mà một đời chẳng được giàu sang,
thì cũng còn có ngày trông giải thoát, chớ tạo nghiệp sát sanh như vậy, thì
ngày sau khó tránh khỏi luân hồi khổ thú.
Bần đạo nguyện sao nhà ngươi hồi tâm tự lượng, đem
tấm lòng nhân từ mà dung thứ những loài động vật, vì nó cũng đủ cả Phật tánh và
cũng biết ham sống sợ chết như ta vậy.
Những người có nhơn hằng lấy con mắt Từ mà quán
xét, xem vạn vật với ta đồng một thể, và muôn tượng với ta đồng một gốc. Nếu tấm
lòng nhơn ái được như thế, thì chẳng những trọn đức từ bi lợi vật một thuở mà
thôi, lại nhiều kiếp được trường thọ là khác nữa”.
Người ấy nghe Ngài phân giải như vậy, liền tỏ ngộ
và chung thân không dám sát sanh loài động vật nữa.
Lại có một khi, Ngài đương đi ngoài đường, tình cờ
gặp một người nông phu vừa cột một con trâu, đặng tính bề làm thịt.
Ngài đi hối hả lại can rằng: “Phàm ở đời, có nhơn
thì có quả, không có sai chạy mảy nào, đó là lẻ cố nhiên như vậy. Hễ giết loài
vật, thì có ngày chúng nó cũng giết lại, vậy mà trong đời có ai biết sợ sệt
đâu, non dao rừng kiếm với vạc dầu ở chốn âm ty, để trừng trị những người tạo
ác nghiệp như ngươi vậy, thì đời kiếp nào mà trông phần giải thoát cho đặng”.
Người nông phu nghe Ngài nói như thế, liền cúi đầu
đãnh lễ và nguyện trọn đời không dám tái phạm nữa.
Ngài thường đi chơi ngoài đồng, bữa nọ lại gặp một
ông Sa di hỏi Ngài rằng: “Thưa Đại Sĩ! Làm thế nào mà hàng phục được vọng tâm của
mình?”
Ngài nghe hỏi, liền trả lời rằng: “Tâm là vật gì
đâu mà ông phải tìm cho uổng công phu. Vả lại vọng tâm thiệt không có căn bản,
hễ buông nó ra thì không thấy dấu tích gì là vọng. Bởi bị các duyên đeo đuổi
lăng xăng, nên mới thành ra vọng niệm như vậy. Nếu nhứt chơn của ta đặng yên tịnh
rồi, thì toàn thể như như phóng ra khắp cả pháp giới và bốn thể vẫn tự nhiên mà
rõ rệt. Chừng đó, dẫu cho bụi trần cấu cũng không có thế nào mà che lấp cho đặng,
thì có vật chi đâu mà ngươi gọi rằng điều phục”.
Ông Sa di nghe Ngài biện bạch như thế, vùng tỏ ngộ
và tôn kính vô cùng, rồi đãnh lễ mà từ giã.
Cách ít lâu Ngài đi chơi, chợt thấy một ông Sa môn
còn nhiễm theo tục trần, cứ khu trục trong trường mộng ảo.
Ngài bèn đón lại mà chỉ dụ rằng: “Bần đạo coi ông
vốn thiệt là Phật. Lẽ nào ông nên tự độ lấy mình, đặng mong có ngày chứng đặng
quả vô sanh pháp nhẫn, cớ sao ông lại còn yểm trợ theo thói phàm tình, đành che
lấp bổn lai diện mục như vậy?
Bây giờ ông phải bỏ các duyên cấu trược, mà giũ sạch
những thói tà phong, ráng sức công phu mà suy tìm trong tâm thể vô sanh, thì có
ngày sẽ đạt tới chỗ diệu minh chơn tánh. Nếu ông hồi quang phản chiếu cho toàn
thủy toàn chung rồi, sẽ đặng vô ngại viên thông.
Bần đạo ao ước làm sao cho ông được như thế, thì
có khác nào một vị La Hán xuất trần, nếu chẳng vậy thì cũng làm một vị Khuất
sát trượng phu. Chớ cách hành động như ông đó, thì đã không có ích cho mình, mà
lại uổng công xuất thế học đạo vô vi, đến chung quy cũng còn lăn lộn trong đường
Lục đạo, biết chừng nào mà thoát ra khỏi đặng vòng sanh tử. Như vậy có khổ hay
không ?”
Ông Sa môn nhờ Ngài điểm hóa, nên liền tỏ ngộ lý
chơn thừa. Từ đó về sau, ông càng lo tu học, không còn nhiễm nữa.
Thiệt cách phô tế của Ngài không khác nào một ông
lương y, đã điều trị không biết bao nhiêu là chứng trầm kha phế tật, rõ ràng một
hột minh châu có thể chỉ sắt hóa nên vàng, một lời pháp ngữ có thể đổi người
phàm trở nên bực Thánh.
Bởi vậy cho nên Ngài thường dùng những phương pháp
thiền định rất giản dị mà độ thoát tất cả chúng sanh qua khỏi sông mê bể khổ, dẫn
dụ người đời ra khỏi nhà lửa đường mờ.
Ngài lại chẳng nên sự cấu nhục của thế tình, cứ
xen lẫn trong chốn trần lao, mà thi hành những sự lợi ích cho hạng người còn sống
say thác ngủ. Vì vậy cho nên trong tám phương hồ hải, chỗ nào cũng là chỗ viên
giác đạo tràng của Ngài thế thác cả.
Còn đối với thập loại chúng sanh, thì Ngài càng
đem lòng quyến luyến như con một cha, như người một nhà, không phân biệt nhơn
ngã, và không biện luận Bắc Nam, vì tất cả chúng sanh thảy đều đủ chơn như diệu
tánh như Ngài vậy, nhưng vì bị màn vô minh che lấp, nên phải trì trục trong
vòng khổ hải sầu thành đó thôi!
Ngài thường đối với quần chúng mà nói rằng: “Muôn
tượng chỉ bao la, song một mảy trần chẳng lập, nhứt chơn trong pháp giới, trăm
hạnh đều phân vân. Tuy vậy chớ không lọt ra ngoài vòng như như chí lý, cho nên
động tịnh đều là pháp tham thiền, nếu một niệm mà được khế chơn, thì sẽ có ngày
mau lên bờ bỉ ngạn.
Đó là lời pháp ngữ của Ngài phát ra những lý mầu
nhiệm của thiền gia, để bủa khắp chốn mê đồ, đặng mở rộng những nghĩa huyền tôn
trong tâm địa, trước là thâu thập những người có lợi căn, sau là thức tỉnh số
người còn độn trí. Thiệt công phu của Ngài đến vô lượng vô biên, lòng phổ tế
trong đời cũng vô cùng vô tận.
Đến đời Lương, nhằm khoảng vua Quân Vương trị vì,
niên hiệu Trinh Minh, năm thứ hai, ngày mùng ba tháng ba, Ngài đối trước chúng
nhơn mà nói rằng: “Qua năm tới đây, cũng ngày này và tháng này, thì ta đem trái
“Di Lặc” mà cúng dường cho đại chúng”.
Quả nhiên qua năm sau, cũng trong ngày ấy và tháng
ấy, đại chúng thấy Ngài ngồi kiết già trên bàn thạch, gần bên Chùa Song Lâm mà
nhập diệt. Ai nấy thảy đều kinh dị và than thở vô cùng.
Trong đại chúng mới hiệp lực cùng nhau kết khám mà
để thi hài của Ngài, rồi làm một tòa bửu tháp rất tôn trọng, ngoài ngạch bia có
khắc hiệu là: Định Ứng Tháp.
Hiện nay tại chỗ bửu tháp ấy, tuy trãi mấy phen
tang thương biến đổi, mà công trình vẫn còn đồ sộ như xưa, thánh tích nguy nga,
xa trông vọi vọi, bốn mùa người đàn Việt tới lui chẳng ngớt, một phương trời
chuông trống rất oai nghiêm.
Đức Di Lặc tuy chưa đến thời kỳ xuất thế, nhưng tấm
lòng từ bi vô hạn đối với tất cả quần sanh, đôi phen tùy theo cơ duyên thục
thác mà ứng tích nơi đời, đặng nêu bày lẽ chánh tôn định huệ, cố ý nhiếp trì những
hạng người đương chìm đắm nơi sông ái hà, và ra công phổ độ những kẻ bị chới với
giữa dòng khổ hải.
Thiệt công đức của Ngài không có bút mực nào mà mô
tả ra cho hết đặng.
Từ ấy chí nhẫn nay, có trên ngàn năm mà phước điền
của Ngài còn lưu trụ các điện Đại hùng, thiện quả vẫn còn bủa khắp nơi trong thế
giới.
Chẳng những mười phương đảnh lễ tôn sùng Ngài mà
thôi, cho đến sáu chữ “Nam Mô Di Lặc Tôn Phật” thì người thường một lòng trì niệm,
chẳng có chút nào biến đổi cả.
Nói tóm lại, Đức Di Lặc còn nhiều số kiếp nữa mới
xuất hiện ra đời, để nối ngôi cho Đức Thích Ca mà làm một vị Phật thứ năm trong
Hiền kiếp, đặng đại chuyển pháp luân mà tế độ muôn loài và phổ lợi trong sa giới.
Nhưng ngặt vì chúng sanh chưa rõ lẽ thiện chơn, cứ
vọng tưởng những việc huyễn hoặc, mà đành chịu sa chìm vào nơi khổ hải và tự
mình chuốc lấy nẻo luân hồi.
Chớ Chư Phật tuy đã nhập diệt rồi, song Tam Bảo
còn lưu trụ khắp cõi nhơn gian, nếu ai hết lòng tinh tấn vui theo mà thọ trì,
thì cũng như Phật đương trụ thế vậy.
Tiếc thay! Người đời trí cạn chướng sâu và tội nhiều
phước ít, cho nên đối diện ngôi Tam Bảo coi như cách xa ngàn dặm.
Vì nguyên nhân của chúng sanh như thế, nên bất đắc
dĩ Ngài mới ứng tích nhiều thời kỳ, đặng hóa độ các kẻ phàm loại trong nhơn
gian đó thôi.
-ST-