ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
Trong kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện, đức Phật
nói về bốn tiền thân, với bốn đại nguyện của ngài Địa Tạng như sau.
1. Trong vô lượng kiếp về trước, ngài Địa Tạng là
một vị Trưởng giả, nhờ phước duyên được chiêm ngưỡng, đảnh lễ và được sự chỉ dạy
của đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, vị Trưởng giả này đã phát
đại nguyện: “Từ nay đến tận đời vị lai, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong
sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng nó được giải thoát hết cả,
rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật quả.”
2. Vào thời quá khứ vô số kiếp trước, thuở đức Phật
Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, tiền thân của Ngài là một người nữ dòng dõi
Bà-la-môn có nhiều phước đức và oai lực; nhưng mẹ của cô không tin vào nhân quả
tội phước, tạo rất nhiều ác nghiệp, sau khi chết bị đọa vào địa ngục. Là người
con chí hiếu, cô rất thương nhớ mẹ, và đã làm vô lượng điều lành, đem công đức ấy
hồi hướng cho mẹ, và cầu nguyện đức Phật cứu giúp. Nhờ các công đức chí thành ấy,
đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại đã cho cô biết là mẹ của Cô đã được thoát khỏi cảnh
địa ngục và vãng sanh về cõi trời. Vô cùng hoan hỉ trước tin ấy, cô đã đối trước
đức Phật Giác Hoa phát nguyện: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những
chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó
được giải thoát.”
3. Trong hằng hà sa số kiếp về trước, thuở đức Phật
Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, ngài Địa Tạng là một vị vua rất Từ bi, thương
dân như con … nhưng chúng sanh lúc ấy tạo rất nhiều ác nghiệp, vị vua hiền đức
này đã phát nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ làm cho đều đặng
an vui chứng quả Bồ Ðề, thời tôi nguyện chưa chịu thành Phật.”
4. Vô lượng
kiếp về thuở quá khứ, thời đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai, ngài Địa Tạng là một
hiếu nữ tên Quang Mục có nhiều phước đức. Nhưng mẹ của Quang Mục lại là người rất
ác, tạo vô số ác nghiệp. Khi mạng chung, bà bị đọa vào địa ngục. Quang Mục tạo
nhiều công đức hồi hướng cho mẹ, và nhờ phước duyên cúng dường một vị A-la-hán,
vị Thánh này đã cho biết rằng, mẹ của cô đã thoát khỏi cảnh địa ngục sanh vào
cõi người, nhưng vẫn còn chịu quả báo sinh vào nhà nghèo hèn, hạ tiện, lại bị
chết yểu… vì lòng thương mẹ và chúng sanh, Quang Mục đã đối trước đức Phật Liên
Hoa Mục Như Lai phát nguyện: “Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp,
trong những thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba
ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng sanh đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác
đạo: địa ngục, súc sanh và ngạ quỉ, v.v... Những kẻ mắc phải tội báo như thế
thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh Giác.”
Ngoài những sự tích trong kinh nêu trên lại còn một
sự tích Lịch sử Phật giáo Hàn Quốc ghi rằng :
Ngài Địa Tạng Bồ tát tục danh Kim Kiều Giác (Kim
Kyo-gak), sanh vào thế kỷ thứ VII, năm 696 TL, tại nước Tân La (Silla), hiện
nay là Hán Thành, thuộc Nam Hàn.
Ngài vốn là một Hoàng tử, sống trong lầu son nhung
lụa, ở cung vàng điện ngọc, thế nhưng tính Ngài lại thích đạm bạc, không bị ảnh
hưởng bởi nếp sống vương giả phong lưu đài các, mà chỉ chăm lo học hỏi và ham đọc
Thánh hiền.
Đức tướng trang nghiêm, lòng Từ bi thuần hậu của
Ngài thì khó có ai sánh kịp.
Vào năm Vĩnh Huy đời Đường Cao Tông, sau khi tham
khảo hết Tam giáo, Cửu lưu và Bách gia chư tử thì Ngài bèn buông lời cảm thán:
“So với Lục kinh của Nho gia, Đạo thuật của Tiên gia, thì lý Đệ nhất Nghĩa đế của
nhà Phật là thù thắng hơn hết, rất hợp với chí nguyện của ta.” Sau đó lập chí
xuất gia vào lúc 24 tuổi.
Sau khi xuất gia, Ngài ưa đến chỗ vắng vẻ tu tập
Tham thiền nhập định, nhân đây bèn nghĩ đến việc hành cước, tìm một nơi thanh vắng
để tĩnh tu. Ngài chuẩn bị thuyền bè, đem theo một ít hành trang và lương thực,
đồng thời dắt theo con Bạch khuyển (chó trắng) tên Thiện Thính, đã theo Ngài từ
lúc xuất gia.
Ngài một mình tự lái thuyền rời bến Nhân Xuyên
(Incheon), trương buồm ra khơi, tùy theo hướng gió mà đi, sau nhiều ngày lênh
đênh trên biển, đến cửa sông Dương Tử (Trung Hoa).
Thuyền bị mắc cạn trên bãi cát, Ngài bèn bỏ thuyền
đi bộ lên bờ, tiếp tục cuộc hành trình. Sau nhiều ngày lang thang, ngài đến
chân núi Cửu Tử ở huyện Thanh Dương, tỉnh An Huy.
Thấy phong cảnh nơi đây hùng vĩ, sơn xuyên tú lệ,
ngài bèn quyết định ở lại. Ngài đi dọc theo triền núi lên phía trên cao để khảo
sát, phát giác khoảng giữa các ngọn núi là một vùng đất bằng phẳng, cảnh trí
nên thơ vô cùng tịch mịch, bèn trèo lên mỏm đá bên cạnh một khe nước suối
trong và thong dong tự tại với năm tháng
mà ngồi tĩnh tọa.
Một hôm, đang lúc tĩnh tọa, bổng có một con rắn độc
nhỏ đến cắn vào đùi, nhưng ngài vẫn an nhiên bất động. Giây lát sau, một người
đàn bà tuyệt đẹp từ trên vách núi bay xuống, đến bên cúi lạy, đưa thuốc cho
ngài và nói: “Đứa bé trong nhà rắn mắt, xúc phạm tôn nhan. Thiếp xin tạo một
con suối mới để đền đáp lỗi lầm của cháu nhỏ.”
Nói xong biến mất. Chưa đầy một sát na, trong vách
núi phụt ra một dòng suối cuồn cuộn chảy xuống. Từ đó, ngài không còn phải lao
nhọc đi xa gánh nước về. (Đây là dòng suối Long Nữ Tuyền nổi danh ở núi Cửu
Hoa).
Tương truyền, dưới chân núi có vị Trưởng giả tên Mẫn
Công (Văn Các lão nhân), là người thích bố thí cúng dường chư tăng. Ông thường
tổ chức cúng dường trai tăng hàng trăm vị. Thế nhưng, mỗi lần như thế, đều thiếu
một vị Tăng. Vì vậy, mỗi lần tổ chức ông đều tự thân lên núi mời Ngài. Nếu
không, công đức cúng dường không được viên thành.
Không bao lâu sau, vì muốn mở rộng đạo trường để
quảng độ chúng sanh, ngài Địa Tạng bèn đến xin Mẫn Công (Văn Các lão nhân) cúng
dường một mảnh đất. Mẫn Công nói: “Tùy ngài muốn bao nhiêu con xin cúng bấy
nhiêu.”
Ngài Địa Tạng nghe thế, tung tấm Cà sa lên không.
Tấm Cà sa tỏa rộng bao trùm toàn núi Cửu Hoa. Mẫn Công (Văn Các lão nhân) thấy
thế bèn vô cùng hoan hỷ, đem toàn bộ núi Cửu Hoa cúng dường.
Mẫn Công (Văn Các lão nhân) có một người con trai,
ngưỡng mộ đức hạnh của ngài, bèn đến xuất gia, hiệu là Đạo Minh. Sau đó, Mẫn
Công(Văn Các lão nhân), vì muốn thuận tiện trong việc nghe pháp, bèn lễ bái Đạo
Minh làm thầy. Việc này trở thành một giai thoại nổi tiếng trong chốn Thiền
môn.
Hiện nay, trong các chùa ở Hàn Quốc thờ tượng đức
Điạ Tạng, phần lớn đều có tượng của cha con (Văn Các lão nhân), Mẫn Công (một
nhà sư trẻ và một ông lão) đứng hầu hai bên.
Ngài Địa Tạng thường Tham thiền nhập định. Ngoài
việc giảng kinh thuyết pháp, ngài thường mướn người sao chép bốn bộ kinh lớn của
Đại thừa Liễu nghĩa, đem đi bố thí khắp nơi.
Năm Chí Đức thứ nhất (TL 765), có danh sĩ Gia Cát
Tiết, ngụ tại một làng dưới chân núi, hương dẫn các kỳ lão trong làng, lên núi
thưởng ngoạn. Đến vùng đất bằng trên núi, thấy những áng mây trôi lững lờ trên
bầu trời xanh với ánh nắng chan hòa ấm áp, tiếng suối reo từ khe núi chảy ra
nghe róc rách, tiếng chim hót líu lo khiến cho mọi người bị phong cảnh tú lệ
làm mê hoặc, đi dần vào rừng sâu, chợt thấy có một vị Thiền sư Tọa thiền trên
mõm đá bên cạnh dòng suối, đang nhắm mắt nhập định. Bên cạnh là một cái đảnh cổ
gảy một chân, trong đó có một ít gạo trộn lẫn đất trắng.
Một lát sau, vị Thiền sư xuất định, lấy gạo đất nấu
chín rồi ăn. Ăn xong, ngài lại tiếp tục tĩnh tọa Tham thiền. Những người trong
nhóm thấy thế, vô cùng cảm động bèn đến thưa với ngài: “Thưa! Ngài tu khổ hạnh
như vầy, đây là lỗi của dân làng chúng con!”
Chẳng bao lâu, mọi người trong làng cùng nhau xây
cất một ngôi Thiền đường rộng lớn hơn nữa, quanh năm đều cúng dường thực phẩm
không hề gián đoạn.
Năm Kiến Trung thứ nhất (TL. 780), vị Quận thú
Trương Nghiêm, nhân vì kính ngưỡng đạo hạnh cao quý sùng kính công nghiệp hoằng
pháp của ngài, bèn tâu lên Đức Tông Hoàng Đế, ban sắc dụ chính thức kiến tạo Tự
viện. Bấy giờ Đạo tràng của Ngài Địa Tạng mới thực sự hùng vĩ trang nghiêm.
Lúc ấy, các vị tăng nước Tân La (Silla) nghe danh,
có đến vài trăm người tìm đến thân cận tu học với Ngài. Dần dần, số người càng
lúc càng đông, thực phẩm trở nên thiếu thốn. Một hôm, ngài ra phía ngoài chùa,
cho đào rất nhiều đất trắng nhuyễn như bột, dự định bổ túc vào phần ăn.
Mọi người trong chùa, cảm mến bởi đức hạnh của
Ngài, đều cùng nhau lên tiếng: “Nguyện dùng pháphỷ thực và Thiền duyệt thực
nuôi sống tuệ mạng, không dùng vật thực nuôi sống thân mạng”.
Điều này chứng tỏ mọi người trong chùa không lấy
thân mạng làm trọng. Thời đó, mọi giới trong Phật giáo đều tỏ lời khen ngợi, ca
tụng họ là “Nam mô Các Vị Tăng Gầy Ốm phương Nam”.
Một hôm vào mùa hạ, năm Trinh Nguyên thứ mười (TL.
795), Ngài triệu tập Tăng chúng vào Chánh điện để từ giã. Mọi người cảm thấy
hoang mang không rõ lý do gì. Lúc ấy, các ngọn núi phát ra tiếng khóc gào thét
thảm thiết của muôn thú, những tảng đá lớn ầm ầm rơi xuống vực sâu, khắp rừng
cây cỏ đều ngẩn ngơ sầu, mây che phủ kín trời đất đều rung chuyển và mây che phủ
kín, mùi hương tỏa khắp núi rừng. Ngài
an tọa kiết già Thị tịch. Hưởng thọ 99 Xuân.
Sau khi Viên tịch, nhục thân của ngài được đặt
trong một động đá. Ba năm sau, Tăng chúng mở động ra, thấy nhục thân vẫn còn
nguyên vẹn, tướng mạo giống hệt như lúc sanh tiền.
Đại chúng đem nhục thân đến Bảo tháp trên ngọn Thần
Quang Lãnh. Dọc đường, nghe văng vẳng như có tiếng tích trượng vàng khua động
theo nhịp chân của mọi người. Kinh dạy: “Bồ tát bị nạn, hình hài vang động ”.
Đây là một dữ kiện chân chánh, không chút hoài nghi, chứng minh sự ứng hóa của
ngài Bồ Tát Địa Tạng.
Hơn nữa, nếu như cung kính lễ bái nhục thân của
ngài Kim Địa Tạng, thì sẽ được lợi ích giống như Kinh Địa Tạng đã nói.
Từ đó đến nay trải qua hàng thiên niên kỷ, Phật tử
và mọi người khắp nơi trên thế giới đều không ngại gian lao, đều phát tâm đến
Thánh tích Cửu Hoa Sơn, Trung Quốc để cùng chiêm bái nhục thân của ngài Địa Tạng
Bồ Tát.
Đặc biệt, mỗi năm vào ngày vía của Ngài vào ba
mươi tháng bảy AL, tại Thánh địa Cửu Hoa Sơn, trong vòng mấy mươi dặm, dầy đặc
những Phật giáo đồ, nam nữ lão ấu, đến tham dự nhất bộ nhất chiêm (một bước một
xá) hoặc nhất bộ nhất bái (một bước một lạy), đủ chứng tỏ Bồ tát đã kết duyên Bồ
đề rộng rãi, sức Từ bi cảm hóa sâu dày !
Đến đầu thế kỷ thứ VIII, nhân gian truyền nhau rằng:
Bồ tát Địa Tạng thị hiện thành Thái tử Triều Tiên tục danh Kim Kiều Giác (Kim
Kyo-gak), xuất gia tu Phật, rồi vân du sang Trung Quốc, tại núi Cửu Hoa, hóa hiện
thần lực nhiếp độ quần sanh.
Và từ đó về sau, Cửu Hoa Sơn trở thành đạo tràng của
Bồ tát Địa Tạng. Từ khi Bồ tát Địa Tạng ứng hiện tại Cửu Hoa Sơn, niềm tin về sự
cứu độ của Ngài trong lòng Phật tử ngày càng sâu rộng. Khách từ phương xa hành
hương đến, chiêm bái và cầu nguyện tại Cửu Hoa Sơn ngày càng đông.
Rồi theo thời gian, vì nhu cầu tu tập của Tăng Ni
cũng như Phật tử, hàng trăm Tự viện được xây dựng trên dãy núi kỳ vĩ này. Cửu
Hoa Sơn hưng thịnh nhất vào đầu và giữa triều đại nhà Thanh và suy giảm từ cuối
nhà Thanh trở về sau...
Ngày nay, dù không còn hưng thịnh như xưa, nhưng Cửu
Hoa Sơn vẫn là một trong Tứ đại Danh Sơn linh thiêng bậc nhất của Phật Giáo
Trung Hoa, và là điểm thu hút du khách cả nước và du khách Quốc tế.
Từ Trung Quốc, Phật giáo truyền đến Triều Tiên.
Qua ngõ Triều Tiên, Phật giáo truyền vào Nhật Bản đầu thế kỷ thứ VI TL. Trước
khi Phật giáo truyền đến Nhật Bản, người dân nơi đây phần lớn tin theo Thần đạo.
Họ tôn thờ nhiều vị thần linh.
Khi Phật giáo du nhập và phát triển, dân chúng Nhật
Bản đã lưu truyền nhiều câu chuyện về Bồ tát Địa Tạng như là hiện thân của vị Bồ
tát chăm lo và cứu giúp những người bất hạnh và khổ đau. Họ tin rằng, Ngài luôn
bảo hộ những lữ khách đi đường, phụ nữ có thai, người lính cứu hỏa… đặc biệt trẻ
em bất hạnh.
Ngài luôn hiện thân để bảo vệ trẻ em bị ngược đãi,
bạo hành trong gia đình và xã hội. Với những trẻ thơ bất hạnh yểu mạng, Ngài
thường đến bên bờ sông Nại Hà, dòng sông mà tín ngưỡng dân gian Á Đông tin là
linh hồn phải đi qua trước khi vào điện Diêm La nghe Diêm vương phán xét tội
hình, an ủi và che chở các em.
Nhiều người tin rằng, những trẻ em yểu mạng, vì
thương nhớ cha mẹ và người thân, linh hồn các em thường ở lại bên bờ Nại Hà nhặt
những viên đá cuội xây lâu đài và thành quách để tưởng đến người thân. Các em rất
khổ sở vì nhớ cha, nhớ mẹ và nhớ anh chị, Bồ tát Địa Tạng thường đến bên các em
vỗ về, an ủi và cùng các em nhặt đá xây thành, giúp các em tích tạo công đức,
và đưa các em qua sông Nại Hà.
Nhiều người khác lại tin rằng, các em có tội bất
hiếu vì khiến cha mẹ và người thân đau buồn, nên các em bị hình phạt bên bờ Nại
Hà, bị qủy dữ hiếp đáp, và Bồ-tát Địa Tạng thường hiện thân cứu giúp các em,
đưa các em qua dòng sông Nại Hà.
Vì tôn thờ Bồ tát Địa Tạng là vị Bồ tát bảo vệ trẻ
em, nên phần lớn tranh tượng của Ngài thường biểu hiện giống và liên quan đến
trẻ thơ. Có tranh tượng, khuôn mặt Ngài trông giống trẻ em, rất ngây thơ, hồn
nhiên. Có tranh tượng, trên tay Ngài bồng một em bé, dưới chân lại có vài ba em
bé khác đang níu kéo Tăng bào và thiền trượng của Ngài. Và tượng Ngài thường được
tôn thờ bên những dòng sông, con suối.
Hằng năm, người dân Nhật Bản thường tổ chức lễ tưởng
nhớ công ơn của Ngài dành cho trẻ thơ vào ngày 24 tháng 7 AL. Ngày nay, tín ngưỡng
Bồ-tát Địa Tạng đã trở thành tín ngưỡng chung của Phật giáo và dân gian. Và sau
Lễ Vu Lan rằm tháng 7 AL thì các Chùa thường khai kinh Địa Tạng tụng cho đến
ngày cúng vía Ngài vào cuối tháng 7 tức ngày 30.
Việt Nam ta chưa có lưu hành và thọ trì Địa Tạng
Sám pháp kinh, trong khi Hàn Quốc thì Kinh này rất thông dụng cho các chùa thường
tổ chức cho quý Phật tử thọ trì Địa Tạng Sám pháp kinh.
Mong rằng gương hạnh Đại Nguyện Vương Bồ tát mãi
thắp sáng trong tâm thức của nhân thế trần gian và nhất là những người cầm cân
nãy mực điều hành đất nước khắp nơi trên thế giới để cùng nhau một Đại nguyện
góp phần khắc phục những xung đột chiến tranh, hậu quả thiên tai dịch họa, xứng
với câu kinh Phật : "Tâm bình thế giới bình " nói chung và riêng thịnh
trị thái bình của mỗi quốc độ.
-ST-