GIẢNG CHÚ ĐẠI BI (NGÀY THỨ TƯ)
13. Hê rị ma ha bàn đa sa mế
Hê rị có nghĩa là “Tâm”. Tâm này có ý nghĩa gì
trong 10 nghĩa? Nghĩa thứ 4 là vô nhiễm trước tâm. Tâm này giúp cho quí vị duy
trì bản tâm thanh tịnh của mình. Khi quí vị khởi tâm niệm tham, sân, si, mạn,
nghi… thì tâm quí vị liền bị ô nhiễm, không còn thanh tịnh nữa. Khi tâm quí vị
không mong khởi những niệm ô nhiễm ấy, thì tâm quí vị được thanh tịnh.
Ma ha có nghĩa là “Đại”, cũng có nghĩa là “Trường”.
Bàn đà sa mế nghĩa là sao? Nếu tôi không nói, chắc
chắn quí vị chẳng thể nào biết được. Nên quí vị muốn biết thì trước tiên tôi phải
giảng. Lúc đó quí vị mới hiểu được. Quí vị mới nói rằng: “Thì ra ý nghĩa của
cân chú ấy là như thế”. Bàn đà sa mế có nghĩa là “đại quang minh” nghĩa là hào
quang rực rỡ chiếu khắp.
Bàn đà sa mế lại còn được dịch là “Trường chiếu mệnh”
nghĩa là ánh sáng thường chiếu soi rộng khắp mọi nơi.
Nguyên câu Hê rị ma ha bàn đa sa mế có nghĩa là
“Tâm đại quang minh”. Nghĩa là ánh sáng của tâm lực, quang minh của tâm lực thường
chiếu rộng khắp, mãi mãi siêu việt cả không gian vô cùng, thời gian vô tận; từ
một vi trần cho đến vô cùng vô tận thế giới đều có sự hiện hữu của ánh sáng ấy.
Quí vị sẽ nói: “à, cái đại quang minh của tâm ấy,
tôi đã nghe trong kinh giảng nói rất nhiều rồi, và…”
Vâng, nhưng trừ phi quí vị không nghe tôi giảng giải
thần Chú Đại Bi thì quí vị không thể nào biết được. Tôi sẽ giảng cho quí vị rõ.
Thật là khó gặp được người nào có thể giảng giải về Chú Đại Bi một cách rõ ràng
tường tận. Thực vậy, hoàn toàn thực tình mà nói, không mấy người thể nhập được
rốt ráo ý nghĩa của thần chú Đại Bi hoặc là chuyển được ý nghĩa của thần chú.
Sẽ có người hỏi: “Thế làm sao Sư phụ biết được?”
Quí vị khỏi cần phải hỏi tôi. Vì tôi đã không hỏi
thì thôi, chứ quí vị đừng nên hỏi tôi tại sao mà tôi biết được. Dĩ nhiên là tôi
phải biết. Nếu tôi không biết, tôi không thể nào giảng giải cho quí vị nghe được.
Vì thế đừng nên hỏi tại sao tôi lại biết.
Thay vì quí vị hỏi tại sao tôi biết, thì quí vị
hãy quay trở lại hỏi chính mình. Tại sao mình lại không biết? Nếu quí vị biết
được lý do tại sao mình không biết, thì quí vị sẽ rõ được tại sao tôi biết.
Trái lại, nếu quí vị không thể nào rõ được tại sao quí vị không biết, thì quí vị
cũng không thể nào rõ được lý do tại sao tôi biết. Đó chính là điều làm nên sự
kỳ diệu vậy.
Chẳng hạn có người đã hỏi tôi rằng: “Tại sao Thầy
làm người xuất gia?” Tôi đã không trả lời câu hỏi đó mà hỏi lại rằng: “Tại sao
anh lại không làm người xuất gia? Nếu anh biết được lý do vì sao anh không xuất
gia, thì anh sẽ hiểu được vì sao tôi lại xuất gia”. Hỏi về đạo lý trong Phật
pháp cũng như vậy. Thay vì quí vị hỏi: “Làm sao mà tôi hiểu được đạo lý ấy?”,
thì quí vị hãy tự hỏi lại chính mình tại sao mình không hiểu được. Khi quí vị
đã hiểu được tại sao mình không biết thì quí vị sẽ hiểu được tại sao tôi lại biết
được đạo lý ấy. Nay quí vị đều là những người có nhiều thiện căn nên được dự
pháp hội giảng chú Đại Bi. Vậy quí vị phải nên hộ trì, bảo trọng cho thiện căn
của mình. Tự mình phải khéo vận dụng thiện căn ấy để tu học và liễu nhập Phật
pháp, đừng để hoài phí một phút giây nào cả.
Hiện tại chúng ta đang sống vào thời mạt pháp. Chư
Phật và Bồ – tát rất ít thị hiện ở thế gian. Thời gian này, lòng người đang tiến
dần đến chỗ hoang liêu, điêu tàn, không dễ gì gặp được chánh pháp, cũng không dễ
gì gặp được bậc chân thiện tri thức.
Có lần tôi bảo các đệ tử rằng: “ở Đài Loan có mở Đại
giới đàn, năm huynh đệ các con nên đến đó cầu thỉnh để được thọ giới pháp”. Các
đệ tử gửi thư cho tôi biết nhiều người ở Đài Loan nói với họ rằng: “Chẳng cần
phải tu hành gì cũng có thể thành tựu đạo nghiệp”. Các đệ tử của tôi trả lời rằng:
“Chúng tôi cũng là những con người như những con người khác, nếu không chịu tu
hành thì làm sao có thể tựu thành Phật đạo? Nếu không công phu hành trì thì làm
sao liễu ngộ được chánh pháp”. Nếu quí vị nói rằng không cần phải dụng công tu
tập mà cũng thành Phật, liễu đạo thì trước đây đức Phật chẳng cần vào núi Tuyết
tu suốt sáu năm làm gì, rồi sau đó đến ngồi dưới cội bồ đề tinh chuyên thiền định
suốt 49 ngày, đến khi sao Mai vừa mọc thì Ngài tựu thành chánh giác.
Đức Phật còn phải tu hành mới thành tựu chánh giác.
Còn mỗi chúng sinh như chúng ta, nếu không tinh tấn tu hành thì làm sao có thể
thành Phật được? Ai ai cũng đều biết phải nhờ vào tu hành mới đạt được Phật quả,
nhưng người chân thật tu hành thì rất ít; và ai cũng đều biết nếu không chịu tu
hành thì đều có thể bị đọa vào địa ngục, nhưng người không chịu tu hành thì
không sao kể xiết. Nghiệp lực thế gian thật là không thể nghĩ bàn!
Quí Phật tử! Sống trong thời mạt pháp mà có được
điều kiện để nghiên cứu Phật pháp thì nên dõng mãnh tinh tấn lên, không nên biếng
nhác, hãy siêng năng công phu, tinh cần đạo nghiệp mới mong có ngày thành tựu.
Nếu không tinh tấn dõng mãnh mà mong thành tựu đạo nghiệp thì không thể nào có
được.Vì thế nên quí vị đừng ngại gian nan, khổ nhọc, chướng duyên, tai ách… mọi
thứ nên quên. Phải đánh trống dõng mãnh lên để cho tinh thần phấn chấn, chỉ một
hướng thẳng đến công phu mới mong có ngày thành tựu quả vị Phật.
Tôi đang nói về sự vi diệu của Phật pháp. Nếu quí
vị không phát khởi niềm tin vào trí tuệ siêu việt thì đạo lý này đối với quí vị
cũng chẳng có lợi ích gì. Quí vị có thể thâm nhập Phật pháp từ mọi sinh hoạt
trong cuộc sống, từ mỗi bước chân lặng lẽ của thời gian trong toàn thể pháp giới…
Trong Phật pháp, điều gì quí vị cũng muốn diễn bày
cho rõ ràng minh bạch thì thường bị đánh mất những nghĩa lý sâu mầu vi diệu.
Nay tôi dù có trình bày hết về diệu lý của Phật pháp, nhưng nếu quí vị không
tin sâu và không hành trì thì điều tôi giảng không còn là diệu pháp nữa. Hơn nữa
sự hành trì cần phải thường xuyên vào mọi lúc, mọi nơi với tinh thần tinh tấn,
không lui sụt, không biếng nhác. Đây là điều khẩn thiết nhất. Nếu quí vị mọi thời,
mọi lúc đều hướng về phía trước mà nỗ lực công phu thì nhất định một ngày kia sẽ
trực nhận ra “mặt mày xưa cũ” của chính mình.
Bàn đà sa mế dịch nghĩa là “đại quang minh” hay
“trường chiếu minh”, tiêu biểu cho nghĩa thứ năm trong mười nghĩa của tâm, đó
là “quán tâm không”. Thông qua “quán tâm không”, hành giả mới có được trí tuệ.
Với trí tuệ, hành giả mới có được quang minh. Có được quang minh, mới tỏa chiếu,
soi sáng khắp mọi pháp giới được. Tức là không còn tối tăm, mê muội, tức là
không còn vô minh.
Sao gọi là “vô minh”, vì tâm của quí vị không có
được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, do vì quí vị không có được “đại
quang minh”. Nếu quí vị có được “đại quang minh” thì tâm quí vị liền có được sự
tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, có nghĩa là quí vị đã chuyển hóa được vô
minh. Một khi vô minh đã bị chuyển hóa sạch rồi, thì pháp tánh hiển hiện, đây
chính là trí tuệ chân thật của quí vị.
Thuở xưa vào triều đại nhà Lương ở Trung Hoa có
Thiền sư Chí Công là một bậc Đại đức cao tăng. Không sử sách nào ghi lại song
thân của Thiền sư là ai. Người ta thường kể với nhau rằng: Một hôm nọ, có người
phụ nữ nghe tiếng khóc của một hài nhi trên cành cây cao. Cô ta trèo lên, thấy
một hài nhi nằm trong tổ chim ưng, bèn đem hài nhi về nuôi. Tuy thân thể hài
nhi này hoàn toàn giống như người nhưng những móng tay, móng chân giống như
móng chim ưng. Khi trưởng thành, xuất gia tu đạo, chứng được ngũ nhãn lục
thông. Không biết cha mẹ Ngài là ai, chỉ biết Ngài sinh trong tổ chim ưng nên mọi
người đều phỏng đoán Ngài được sinh ra từ trứng chim ưng vậy.
Thời ấy, vua Lương Vũ Đế cũng như mọi người đều rất
kính trọng và tin phục các Thiền sư. Bất luận khi họ gặp những sự kịên gì trong
đời sống, như sinh con, cha mẹ qua đời, cưới hỏi… họ đều cung thỉnh các Thiền
sư đến để tụng kinh chú nguyện.
Một hôm, có một gia đình giàu có thỉnh Thiền sư đến
tụng kinh chú nguyện nhân dịp đám cưới người con gái của họ, đồng thời thỉnh
Thiền sư ban cho vài lời chúc mừng để mong rằng trong tương lai, việc hôn nhân
đều được tốt lành như ý. Thiền sư Chí Công đến nhà ấy, khi nhìn thấy cô dâu chú
rể, Ngài liền nói:
“Thật cổ quái, thật cổ quái!”
“Cháu cưới bà nội”
“Thật cổ quái” nghĩa là xưa nay chưa từng có một
việc như vậy. Đây không phải là chuyện xưa nay thường xảy ra. Thật kỳ lạ khi
nhìn một đứa cháu cưới bà nội mình làm vợ. Trên thế gian này, nếu không thông đạt
những nhân duyên trong thời quá khứ thì không thể nào lý giải được những mối
quan hệ cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em, bè bạn… của nhau. Vì sao? Vì mọi người
đều có thể là chồng hoặc vợ của nhau trong đời trước. Một người có thể là cha
hoặc là con của nhau trong nhiều đời trước. Hoặc một người đều là mẹ và con gái
của nhau trong đời trước. Ông nội của quí vị trong đời trước lại kết hôn với
cháu gái của quí vị trong đời này. Hoặc là bà ngoại đời trước lại tái sinh làm
con gái của quí vị. Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra, và đều chịu sự biến hóa
khôn lường.
Trong nhà này, chuyện “cháu cưới bà nội” là do trước
kia, khi bà nội sắp mất, bà trăn trối lại với toàn gia quyến: “Con trai ta vừa
mới cưới vợ và đã có con nối dòng. Con gái ta cũng đã có chồng, ta không còn bận
tâm gì nữa”. Bà ta hoàn toàn thỏa mãn và đã gạt mọi sự bận tâm qua một bên, ngoại
trừ một điều: còn đứa cháu nội, “tương lai rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc nó? Liệu
người vợ của nó có đảm đang hay không? Ta không thể nào không lo cho nó được!”
Bà nắm tay đứa cháu nội và qua đời. Người ta bảo rằng
nếu mọi việc đều toại nguyện, lúc lâm chung có được tâm trạng thơ thới thì người
chết sẽ nhắm mắt. Còn nếu không, thì người chết không nhắm mắt được. Bà lão
nói: “Bà rất lo lắng cho cháu, bà chết không nhắm mắt được”. Nói xong, bà ra đi
mà mắt vẫn mở. Thần thức của bà vẫn còn lo âu. Khi đến gặp Diêm vương, bà ta
than khóc, thưa rằng:
- Tôi còn đứa cháu nội, không ai chăm sóc nó.
Diêm vương đáp:
- Được rồi, bà hay trở lại dương gian chăm sóc cho
nó
Nói xong, bà ta được đầu thai trở lại trong cõi trần.
Khi đến tuổi thành hôn, bà ta lấy người cháu nội trước đây của bà ta. Vì vậy
nên nói “cháu lấy bà nội”. Quí vị thấy có phải là cổ quái thật không?
Chỉ vì một niệm ái luyến không buông xả được mà tạo
nên biết bao duyên nghiệp buộc ràng về sau. Bà ta chỉ vì bận tâm vì đứa cháu,
mà về sau phải làm vợ cho nó. Quí vị thử nghĩ lại xem, đây chẳng phải là chuyện
cổ quái hay sao?
Quí vị sẽ hỏi: “Làm sao mà Thiền sư Chí Công biết
được điều ấy?” Thiền sư biết được là vì Ngài đã đạt được ngũ nhãn và lục thông.
Nên chỉ cần nhìn qua, là Ngài liền biết được ngay kiếp trước của cô dâu vốn là
bà nội của chú rể. Chỉ vì bà nội đã khởi một niệm ái luyến sai lầm nên nay phải
đầu thai trở lại làm người, và làm vợ của đứa cháu nội mình. Một niệm lành còn
như thế huống gì là niệm ác, hoặc khởi trùng trùng niệm ác thì luân hồi trong
tam đồ lục đạo biết bao giờ dứt, biết bao giờ mới mong ra khỏi.
Thiền sư lại nhìn trong số khách đến dự đám cưới,
có một bé gái đang ăn thịt, Ngài nói: “Con gái ăn thịt mẹ”.
Vì miếng thịt mà em bé đang ăn là thịt dê, con dê
này vốn là mẹ của em bé đầu thai lại. Kiếp trước bà ta đã tạo nghiệp ác quá lớn
nên đã phải đọa làm dê. Nay lại bị chính con mình ăn thịt. Vòng oán nghiệp khởi
dậy do vô minh của chúng sinh không lời nào kể hết được. Chư Bồ Tát thương xót,
phát tâm cứu độ chúng sinh là do điểm này.
Khi Thiền sư nhìn các nhạc công, thấy có vị đang
đánh trống. Ngài nói:
“Con trai đang đánh bố”.
Vì cái trống ấy bịt bằng da lừa. Con lừa này chính
là cha của anh nhạc công đầu thai vào. Con lừa này bị giết thịt, lấy da làm mặt
trống. Thật là đau thương cho kiếp luân hồi.
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp:
“Heo dê ngồi ở trên”
Ngài thấy có vô số loài heo, cừu, dê, gà được đầu
thai trở lại làm người, nay họ đều là bà con thân quyến của nhau nên cũng đến dự
đám cưới này.
Nhìn trong bếp, Ngài nói:
“Lục thân bị nấu trong nồi”.
Chính là cha mẹ, anh em, bà con, bè bạn do kiếp
trước đã sát sinh heo, gà quá nhiều để ăn, nay lại bị đọa làm heo, dê, gà trở lại;
rồi bị giết thịt, bỏ vào nồi chiên nấu trở lại.
Ngài nói tiếp:
“Mọi người đều vui vẻ chúc mừng nhau”
Mọi người đến dự đám cưới đều rất vui vẻ mà chúc tụng
nhau. Ngài tự than với mình rằng:
“Trông thấy cảnh ấy mà lòng đau xót, ta biết đó
chính là những oán nghiệp xoay vần vay trả, tạo nên nỗi khổ chất chồng”.
Thiền sư Chí Công biết rõ nhân quả khi nhìn vào
gia đình này. Làm sao chúng ta có thể hiểu được hết chuỗi nhân quả của từng gia
đình với trùng trùng khác biệt nhau ra sao. Cho nên những người tu đạo phải rất
cẩn trọng trong khi tu nhân, vì khi nhân duyên chín mùi sẽ gặt lấy quả tương ứng
với nhân đã gieo. Tại sao người lại trở lại làm người? Là để trả nợ, trả những
món nợ nhân quả ở thế gian. Nếu quí vị không tìm cách trả món nợ này thì nợ nần
vẫn tiếp tục, như món nợ đã vay của ngân hàng vậy.
Tôi nhớ một câu chuyện này nữa. Có một gia đình
nuôi một con lừa, dùng nó để kéo cối xay và chuyên chở. Người chủ thấy lừa quá
chậm chạp nên thường dùng roi đánh nó để thúc giục. Con lừa làm việc miệt mài
trong cực nhọc cho đến khi chết. Nó được đầu thai làm người. Khi người chủ hay
đánh đập lừa chết, lại đầu thai làm một người phụ nữ. Khi cả hai người này đến
tuổi thành hôn thì họ cưới nhau.
Quí vị có biết cặp vợ chồng này sống với nhau như
thế nào không? Suốt ngày người chồng đánh đập người vợ. Ông đánh vợ bất kỳ lúc
nào, bất luận đang cầm vật gì trên tay, cả lúc đang ăn cơm cũng đánh vợ bằng
đũa. Ông ta vừa đánh vừa chửi, cho dù người vợ chẳng làm điều gì sai trái.
Một hôm Thiền sư Chí Công đi qua nhà họ. Người phụ
nữ bèn thưa với Ngài:
– Chồng con ngày nào cũng đánh và chửi con qúa chừng
mà con không biết tại sao. Bạch Ngài, xin Ngài hãy dùng ngũ nhãn, lục thông bảo
cho con biết mối tương quan nhân quả của chúng con đời trước ra sao mà đời này
chồng con đánh đập và chửi mắng con hoài vậy?
Thiền sư Chí Công đáp:
– Tôi sẽ nói rõ tương quan nhân quả của hai người cho
mà nghe. Trong đời trước, bà là một người đàn ông. Ngày nào bà cũng đánh đập chửi
mắng con lừa, thúc giục nó phải kéo cối xay bột.
Ông chủ ấy thường đánh con lừa bằng cái chổi tre.
Nay ông chủ được đầu thai lại làm người phụ nữ, đó chính là bà. Còn con lừa thì
được đầu thai làm người chồng. Nay ông ta thường hay đánh đập chửi mắng bà cũng
như kiếp trước bà đã thường đánh chửi ông tức là con lừa vậy. Nay bà đã hiểu rõ
nhân quả tương quan với nhau rồi, tôi sẽ bày cho một cách để chấm dứt vòng oán
nghiệp này. Bà hãy cất giấu tất cả mọi dụng cụ trong nhà ngoại trừ cái chổi
đuôi ngựa (chổi dây). Khi người chồng thấy chẳng còn vật gì dùng để đánh cô,
anh ta sẽ cầm chổi dây này để đánh. Cứ để cho anh ta đánh vài trăm roi, thì nợ
cũ của bà mới được trả. Lúc đó, bà mới báo cho anh ta biết nhân đời trước và quả
đời sau báo ứng với nhau rất rõ ràng như tôi vừa giải thích cho bà. Anh ta sẽ
không còn đánh bà nữa.
Người phụ nữ làm đúng như lời Thiền sư Chí Công chỉ
dạy. Khi người chồng về đến nhà, ông ta liền kiếm vật gì đó để đánh vợ. Chỉ còn
thấy chiếc chổi đuôi ngựa, ông ta cầm lấy và đánh. Thông thường như mọi khi, cô
ta tìm cách chạy trốn. Nhưng lần này cô ta kiên nhẫn ngồi đó chịu đòn cho đến
khi ông chồng ngừng tay.
Thấy lạ, ông ta hỏi tại sao bà không bỏ chạy. Cô
ta kể lại việc được Thiền sư Chí Công giải thích cặn kẽ tương quan nhân quả của
hai người. Ông chồng nghe xong ngẫm nghĩ: “Như thế thì từ nay ta không nên đánh
chửi cô ta nữa. Nếu còn đánh, thì kiếp sau cô ta sẽ đầu thai trở lại rồi tìm ta
để đánh chửi”. Từ đó ông chồng không còn đánh mắng người vợ nữa.
Thế nên quí vị phải biết mọi người đều có sự quan
hệ với nhau tương ứng với nhân đã tạo. Quí vị chẳng thể nào biết được trong đời
trước, ai đã từng là mẹ, là anh, là cha hay là chị em của mình. Cái nhân đã tạo
ở đời trước sẽ tạo thành quả đời này và nhất định có liên quan đến bà con quyến
thuộc của mình. Nếu quí vị hiểu được đạo lý nhân quả, thì quí vị có thể chuyển
hóa, biến cải được nhân bằng cách từ bỏ những việc ác.
Còn một chuyện nữa về Thiền sư Chí Công. Một ngày
Ngài ăn hai con chim bồ câu. Ngài rất thích món ăn này. Người đầu bếp nghĩ rằng
món thịt bồ câu chắc là rất ngon nên ngày nọ anh ta quyết định nếm thử. Anh ta
làm việc này với hai ý nghĩ: một mặt là muốn thử xem thức ăn hôm nay mình làm
có ngon hay không? một mặt khác anh ta nghĩ rằng Ngài Chí Công ngày nào cũng
thích ăn bồ câu, nhất định đây là một món ăn rất ngon, nên muốn thưởng thức một
chút rồi mới đem đến cho Thiền sư dùng.
Khi người đầu bếp mang thức ăn đến. Ngài nhìn đĩa
thức ăn và hỏi:
– Hôm nay có ai nếm trộm thức ăn này? Có phải
chính anh không?
Người đầu bếp liền chối. Thiền sư liền bảo:
– Anh còn chối. Tôi sẽ cho anh thấy tận mắt ai là
người nếm trộm. Hãy nhìn đây!
Ngài liền ngồi ăn. Ăn hết hai con bồ câu rồi, Ngài
liền há miệng rộng, trong đó, một con bồ câu liền vẫy cánh bay ra còn con kia
thì bị mất một cánh, không thể bay lên được.
Thiền sư mới bảo:
– Anh thấy đó, nếu anh không nếm trộm thì tại sao
con bồ câu này không thể bay được?
Chính là vì ông đã ăn hết một cánh của nó.
Chuyện này làm cho anh đầu bếp biết Thiền sư Chí
Công không phải là người thường. Ngài chính là hóa thân của Bồ – tát. Thế nên
Ngài có năng lực biến những con bồ câu bị nấu thành thức ăn rồi thành bồ câu sống.
Không phải là Bồ – tát, không làm chuyện này được.
Thiền sư Chí Công còn thường ăn một loại cá gọi là
Tuệ Ngư. Cũng đem cá ra nấu nướng rồi Ngài ăn từ đuôi lên đầu. Nhưng sau đó
Ngài lại há miệng ra làm cá sống lại. Vì vậy, những việc này là rất thường đối
với cảnh giới của hàng Bồ – tát. Thiền sư Chí Công là một vị Bồ – tát, nhưng
không bao giờ Ngài nói: “Các ngươi biết không, ta là một vị Bồ – tát, ta đang
giáo hóa chúng sanh, ta có đại nguyện này, hạnh nguyện kia…” Các vị không bao
giờ mong khởi ý niệm ấy. Cho nên chúng ta là hàng phàm phu, dù có thấy Chư Phật
hay Bồ – tát cũng không thể nào nhận biết được. Việc làm của Bồ – tát cũng gần
như hành xử của người thường, nhưng thực chất lại không giống nhau. Là vì phàm
phu khi hành động chỉ nghĩ đến lợi ích của chính mình, không nghĩ đến sự giúp đỡ
cho người khác. Còn Bồ – tát thì chỉ nghĩ đến lợi ích của người khác mà không
nghĩ đến mình. Khác nhau là ở điểm này. Bồ – tát thì tự làm lợi ích cho mình
còn lo làm lợi ích cho người khác. Tự giác ngộ mình xong rồi giúp cho người
khác giác ngộ. Tự độ hoàn toàn, lợi tha hoàn toàn. ý nghĩa của chú Đại Bi mà
tôi đang giảng cũng nằm trong đạo lý này vậy.
14. Tát bà a tha đậu du bằng
Câu chú này chia làm ba phần. Khi trì tụng lên,
câu chú có ba nghĩa khác nhau:
Tát bà có nghĩa là “tất cả”. Còn có nghĩa là “bình
đẳng”. Nên Tát bà biểu tượng cho ý thứ hai trong mười tâm, là “bình đẳng tâm”.
A tha đậu dịch nghĩa là “phú lạc vô bần” giàu có,
an lạc, không nghèo nàn về tâm linh, đạo lý, Phật pháp.
Còn dịch nghĩa là “như ý bất diệt”.
“Như ý” nghĩa là ước nguyện điều gì cũng đều được
thành tựu.
“Bất diệt” nghĩa là sự thành tựu do nguyện ấy vĩnh
viễn không tiêu mất.
Trong mười loại tâm thì đây là “vô vi tâm” nghĩa
là “phú lạc vô bần” và “như ý bất diệt”.
Du bằng dịch là “nghiêm tịnh vô ưu”, là thanh tịnh
và trang nghiêm. Trang nghiêm lại thêm thanh tịnh, cho nên không có sự lo phiền,
ưu não. Câu chú này biểu tượng cho tâm thứ chín “Vô kiến thủ tâm”. Kiến thủ là
một trong năm món “ngũ lợi sử”. Nghĩa là khi quí vị vừa trông thấy một vật gì,
tâm liền khởi niệm muốn chiếm đoạt, giữ lấy. Nên với tâm thứ chín – vô kiến thủ
tâm là trạng thái không có mảy may vọng động về sự chấp thủ đối với pháp và
ngã; đối với chủ thể cũng như khách thể; đối với ngoại cảnh cũng như dòng chuyển
biến của thức tâm.
15. A thệ dựng
A thệ dựng la tiếng Phạn, dịch nghĩa “vô tỷ pháp”.
Không có pháp nào có thể so sánh được với pháp này. Còn có nghĩa là “vô tỷ
giáo” nghĩa là không có đạo giáo nào có thể so sánh được. Câu chú này biểu tượng
cho tâm thứ bảy, được gọi là “ty hạ tâm”, là tâm rất cung kính và tùy thuận bất
kỳ người nào mình gặp. Câu chú này còn biểu tượng cho tâm thứ tám, gọi là “vô tạp
loạn tâm”. Đây chính là pháp thanh tịnh, không chút cấu nhiễm, chính là pháp
bát nhã tâm của Quán Thế Âm Bồ – tát.
Mười loại tâm này là tướng của Đà – la – ni, chúng
ta phải đem những đạo lý này hành trì không xao nhãng và gián đoạn. Chúng ta tu
tập theo tinh thần của kinh Đại bi tâm Đà la ni thì chắc chắn sẽ thành tựu đạo
nghiệp, đắc thành chánh quả.
16. Tát bà tátđá, na ma bà tát đa, na ma bà già
Tát bà tát đá là tiếng Phạn, dịch là “Đại thân tâm
Bồ – tát”.
Na ma bà tát đa. Hán dịch là “đồng trinh khai sĩ”,
là tên gọi khác của pháp vương tử, cũng là hàng Bồ – tát. “Đồng trinh” biểu tượng
cho bản tánh. Còn “khai sĩ” cũng là một danh hiệu khác của Bồ –tát, có nơi gọi
là “đại sĩ”. Các vị Bồ – tát lúc sắp thành tựu Phật quả, đều được gọi là pháp
vương tử, tên gọi của hàng Thập địa Bồ – tát.
Na ma bà già. Hán dịch là “Vô đẳng đẳng”. Giống
như ý nghĩa trong Bát nhã tâm kinh “Cố tri Bát – nhã ba – la – mật – đa, thị đại
thần chú, thị đại minh chú, thị vô lượng chú, vô đẳng đẳng chú”.
Quí vị có thể hỏi: “Cái gì không thể sánh bằng?”
“Đó là bà già, Hán dịch là Thế tôn”. Bà già là chư Phật thường trụ ở khắp trong
mười phương.
(còn nữa)
Người giảng: Hoà thượng Tuyên Hoá