TÔN GIẢ LA HẦU LA - MẬT HẠNH ĐỆ NHẤT
1.- CẬU BÉ
HẠNH PHÚC NHẤT THẾ GIAN
Khi chưa xuất gia, Phật vốn là vị thái tử của
thành Ca Tì La Vệ (Kapilavastu - Kapilavatthu). Thái tử đã cưới công chúa nước
Câu Lị (Koliya) là Da Du Đà La (Yasodara) làm vợ. Thái tử và công chúa đồng tuổi.
Năm mười chín tuổi, công chúa sinh hoàng tôn La Hầu La. Thái tử vui mừng lắm,
nhưng không phải là niềm vui thông thường của người đời khi sinh con. Nguyên vì
trước đó, đã mấy lần thái tử xin phép phụ vương Tịnh Phạn (Suddhodana) đi xuất
gia học đạo, đều không được chấp thuận, nhưng đức vua có hứa, nếu khi nào thái
tử sinh được vương tôn thì ngài sẽ cho phép xuất gia. Bây giờ thì vương tôn La
Hầu La đã ra đời, nguyện vọng xuất gia của thái tử chắc là thực hiện được; bởi
vậy thái không vui mừng sao được!
Thái tử từ giã hoàng cung vào đêm Mồng Tám tháng
Hai, bảy ngày sau khi La Hầu La chào đời. Đêm ấy, khi công chúa và La Hầu La đều
đã ngủ say, thái tử nhìn hai mẹ con lần chót, rồi với ý chí cương quyết, chàng
leo lên lưng ngựa trắng, rời khỏi hoàng thành đi xuất gia. Từ đó, La Hầu La phải
sống những ngày thiếu vắng bàn tay nâng niu của người cha thương yêu độc nhất
trên đời! Nhưng, thái tử đi xuất gia và rồi đã thành Phật; trước là thân phụ,
bây giờ trở thành bậc đạo sư, dẫn dắt cho La Hầu La về sau chứng ngộ quả thánh.
Đó mới chính là người cha cao cả nhất trên thế gian!
La Hầu La lớn dần trong sự yêu thương cùng cực của
mẹ và ông bà nội. Câu lúc đó là vị vương tôn độc nhất, ngày ngày sống vô tư vô
lự trong hoàng cung. Đến lúc bắt đầu có chút ít hiểu biết việc đời, cậu cũng cảm
thấy thiếu vắng cha là điều đáng buồn, nhưng dù sao cậu vẫn còn có mẹ ở bên cạnh,
và bà rất mực cưng chiều cậu. Bà chính là nguồn ánh sáng duy nhất của cậu, là
niềm an ủi, là mái ấm chở che cho cậu. Trong khi đó, Da Du Đà La, từ ngày vắng
bóng người chồng yêu quí, từ xuân sang hạ, đến thu rồi đông, một mình vò vỏ
trong thâm cung vắng lặng, sống một ngày mà cảm thấy dài như cả năm, thì nguồn
vui duy nhất của bà chính là La Hầu La! Hai mẹ con nương nhau mà sống qua năm
tháng.
Có người nói, Da Du Đà La là người đàn bà bạc mệnh,
còn La Hầu La là cậu bé đáng thương, nhưng đó chỉ là nói theo thói thường ở đời
mà thôi. Sự thực ở đây, dù có bạc mệnh hay đáng thương thì cũng chỉ là một thời
gian ngắn. Hơn nữa, có hi sinh lớn thì chắc chắn sẽ có thu hoạch lớn. Mà quả vậy,
về sau được Phật hóa độ, công chúa xuất gia tu tập và đã chứng ngộ. La Hầu La
cũng vậy, đã theo Phật xuất gia và chứng quả thánh. Công chúa chẳng phải là người
phụ nữ vinh hạnh nhất đời đấy ư?! La Hầu La chẳng phải là cậu bé hạnh phúc tột
cùng đấy ư?!
Khi từ giã hoàng cung, thái tử cũng muốn ôm La Hầu
La vào một lần chót, nhưng vì sợ làm kinh động công chúa, lỡ như nàng thức giấc
làm cản trở sự ra đi thì sao; cho nên chỉ nhìn và thầm bảo: “Đợi khi ta thành đạo
rồi, sẽ trở về thăm con!” Phật xem tất cả chúng sinh đều như La Hầu La. Phật đã
đem tình thương cho tất cả chúng sinh, thì ở vào hoàn cảnh của La Hầu La, cậu lại
càng dễ dàng nhận được tình thương của Phật. Cho nên chúng ta chớ bảo La Hầu La
thiếu vắng phụ thân từ thuở ấu thơ là rất đáng thương, trái lại phải thấy rằng,
cậu bé ấy được làm con của Phật, được nuôi nấng trong chiếc nôi trời đất đầy ắp
tình thương cao rộng, quả thật là cậu bé hạnh phúc nhất thế gian!
2.- ĐỨA CON
KHÔNG BIẾT MẶT CHA
Năm thứ ba sau ngày thành đạo, Phật từ nước Ma Kiệt
Đà (Magadha) ở phương Nam trở về thăm cố hương là thành Ca Tì La ở phương Bắc.
Trên từ vua Tịnh Phạn xuống đến mọi người trong dòng họ Thích Ca đều ra ngoài cổng
hoàng thành nghênh đón Phật; ngoại trừ hai người: Da Du Dà La và La Hầu La.
Công chúa nhủ thầm: “Người đi xuất gia, mình vì Người mà cam chịu nỗi buồn đau
vắng vẻ; Người ở ngoài mặc y phục bạc màu, trong cung mình cũng ăn mặc giống
Người; nghe nói Người tu khổ hạnh, mổi ngày chỉ ăn một bữa, mình cũng vội vàng
học tập làm theo hạnh ấy. Mình đối với Người chân thành như vậy, có gì sơ xuất
đâu! Nếu Người còn nghĩ đến mình thì tự nhiên Người sẽ vào đây thăm mình ...”
Đã mười năm không thấy mặt, giờ đây Da Du Đà La
không muốn gặp Phật trước mặt mọi người, nghĩ ra cũng phải. Dĩ nhiên là trong
lòng công chúa giờ phút ấy, cũng giống như mọi người, rất nao nức mong được gặp
Phật, nhưng vì lễ giáo, vì tự trọng, bà đành phải nhẫn nại. Bà leo lên một tầng
lầu cao ở trong cung và đến ngồi bên cửa sổ. Từ đó nhìn xuống cổng hoàng cung,
bà có thể thấy rõ được cảnh tượng mọi người nghênh đón Phật. Ngay lúc ấy, cậu
bé mười tuổi La Hầu La chạy đến bên bà, nói:
- Mẹ ơi! Ba con đã về! Bà nội (Kiều Đàm Di) bảo
con thưa với mẹ như vậy.
Cậu bé hãy còn ngây thơ, đâu biết được những nỗi
niềm thầm kín của mẹ trong giờ phút ấy như thế nào! Cậu chỉ thấy hôm nay trông
mẹ sao có vẻ nghiêm trang đến phát sợ! Tuy nhiên cậu biết dù thế nào mẹ vẫn
thương cậu rất mực, cho nên lại nũng nịu hỏi:
- Mẹ ơi, xem kìa! Ngoài cổng đông người quá, trong
đó thế nào chẳng có ba con. Ba con ra sao hở mẹ?
Câu hỏi hồn nhiên phát ra từ miệng đứa con thơ dại
càng làm cho lòng bà thấy thương cảm muôn phần, nhưng tâm tình của người lớn,
trẻ con làm sao hiểu được! Đột nhiên, một tay bà bế La Hầu La lên, một chỉ xuống
cổng hoàng cung, đôi mắt rưng rưng, giọng nói run run, bà bảo La Hầu La:
- Con xem kìa, trong đoàn sa môn kia, người đi đầu
có dáng vẻ trang nghiêm nhất là ba con đó!
Cậu bé mở to cả hai mắt để nhìn. Một giọt nước mắt
vừa rơi khỏi khóe mắt bà, rớt trên đầu La Hầu La, bà vội nắm tay con dắt về
phòng riêng ...
Mười năm xa cách! Mười năm biệt tăm biệt tích! Mười
năm như mây khói, như chiêm bao! Đây là lần đầu tiên bà vừa được thoáng trông
thấy Phật. Lòng bà lúc đó như mặt nước ao bị ném xuống một hòn đá, sóng gợn lao
xao, không còn phẳng lặng được nữa. Quán sát và thấy rõ tâm ý của bà và sau khi
đã đáp lễ mọi người, Phật dẫn Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên vào nội cung thăm
bà. Cuộc trùng phùng giữa một người là đức Phật đại giác và một người là vị
hoàng phi xinh đẹp, đã làm cho mọi người chú ý.
Trong một phút yên lặng, với ánh mắt trang nghiêm
và đầy từ bi, Phật nhìn Da Du Đà La vừa cảm thông, vừa thương xót; còn Da Du Đà
La thì nhìn Phật như yêu thương, như hờn dỗi, tâm hồn bấn loạn, trăm mối ngổn
ngang ... Rồi bà bật khóc, Phật yên lặng đứng nhìn, để yên cho bà khóc. Khi cơn
xúc động dã dần dần lắng dịu, bà mới chợt nhận ra rằng, giữa Phật và bà giờ đây
đã có một đường mương ngăn cách. Bà lại nghĩ, Phật là Phật, đâu có chuyện Phật
sẽ dùng lời êm ái, dịu ngọt của một người chồng để an ủi mình như thuở xưa! Bà
liền lau khô nước mắt, đỡ La Hầu La cùng quì xuống trước Phật. Bấy giờ Phật mới
nói với bà, thật chậm rãi, rõ ràng từng tiếng một:
- Để cho nàng phải chịu bao nỗi buồn đau, đó là sự
thiếu sót của ta; nhưng ta đã xứng đáng với tất cả chúng sinh, giờ đây ta đã
thành tựu được bản nguyện từ vô số kiếp. Xin nàng hãy vì ta mà vui vẻ lên!
Phật lại nhìn La Hầu La, từ ái vỗ về:
- Thật chóng quá, con đã lớn thế này rồi!
Phật có vẻ như thờ ơ, mà cũng có vẻ như rất dồi
dào tình cảm. Lời nói của Phật, thái độ của Phật, đã làm cho hai vị tôn giả Xá
Lợi Phất và Mục Kiền Liên thật cảm động, tưởng chừng có thể khóc lên được. Còn
cậu bé La Hầu La thì đang lúng ta lúng túng, chẳng biết kêu phụ thân mình bằng
gì. Kêu là ba ư? Trông người nghiêm trang như ông thần, tiếng “ba” không thể lọt
ra khỏi miệng được! Kêu là Phật ư? Chẳng biết có nên kêu như thế không! Nhưng
La Hầu La quả thật thông minh, nhìn thấy có quá đông các vị sa môn theo chân Phật,
cậu hiểu ra rằng, Phật bây giờ không phải là người cha riêng của một mình mình,
mà là đấng cha lành chung của tất cả mọi người! Một cậu bé mười tuổi mà có sự
thấy biết như vậy thì quả thật không phải là một cậu bé tầm thường, mà đã sẵn
có nhiều căn lành.
3.- CHÚ SA
DI ĐẦU TIÊN
Trong thời gian Phật và tăng chúng ở lại hoàng
cung, nơi đây tạm thời trở thành một tăng viện. Không khí hoàn toàn nghiêm tịnh,
không có cung nga mĩ nữ, không có đàn ca múa hát, không có yến tiệc rượu chè, nhưng
Phật đã không ở lại đây lâu, vì sợ rằng, nếu ở lại đây lâu, không khí hoàng
cung sẽ ảnh hưởng đến nếp sống thiểu dục của tăng đoàn, rất dễ làm cho tăng
chúng mất chánh niệm. Cho nên chỉ vài ngày sau, Phật đưa tăng chúng ra trú tại
công viên Ni Câu Đà (Nyagrodha - Nigroda), ở ngoại ô thành Ca Tì La. Tuy trú tại
vường Ni Câu Đà nhưng Phật vẫn thường vào hoàng thành để khất thực và bố giáo.
Cậu bé La Hầu La dần dà cũng quen đi, không còn cái dáng vẻ sợ sệt nữa; có lúc
đã nói với Phật một cách ngây thơ thật dễ thương:
- Bạch Phật! Con rất thích được ở chung hoài với
Phật!
Câu nói ấy đã tỏ rõ được tình phụ tử thiêng liêng.
Nếu không thì dễ gì mới thấy nhau trong thời gian ngắn mà đã khiến một đứa bé
thốt được lời lẽ như vậy. Đức Phật cũng từ ái trả lời:
- Ừ! Con ạ, rồi cũng có ngày ta cho con được ở
hoài bên cạnh ta.
Quả vậy, sau đó không lâu, La Hầu La đã được xuất
gia theo Phật. Nguyên vì, Da Du Đà La vẫn một lòng tưởng nhớ Phật, nên thường tập
cho La Hầu La dạn dĩ, hoạt bát; rồi một hôm bà bảo:
- Con hãy theo cha con mà xin gia tài! Cha con có
thứ tài sản quí báu mà cả mẹ con mình chưa bao giờ trông thấy.
Trưa hôm ấy, Phật và chư tăng vào thành khất thực
xong, lúc đang trên đường trở về vườn Ni Câu Đà thì La Hầu La chạy theo sau Phật,
thỏ thẻ:
- Phật ơi! Xin cho con gia tài của Phật đi!
Da Du Đà La nhìn theo bóng dáng đứa con yêu thương
duy nhất đang theo chân Phật khuất dần, rồi nghĩ đến việc La Hầu La có thể sắp
xuất gia, lòng bà bỗng quặn thắt, nước mắt tuôn trào ...
Mà thật vậy, sau khi về đến vườn Ni Câu Đà, Phật bảo
tôn giả Xá Lợi Phất:
- Cháu La Hầu La đang theo tôi xin tài sản. Tôi
không muốn cho cháu thứ tài sản cũng như hạnh phúc tạm bợ, mà phải là thứ tài sản
quí báu và hạnh phúc chân thật. Này Xá Lợi Phất! Tôi nhờ thầy thu nhận cho cháu
xuất gia. Cháu sẽ là chú tiểu đầu tiên của giáo đoàn!
Phật nhờ tôn giả Mục Kiền Liên xuống tóc cho La Hầu
La, rồi bảo cậu lạy tôn giả Xá Lợi Phất làm thầy truyền giới. La Hầu La trở
thành chú sa di đầu tiên trong giáo đoàn của đức Phật.
La Hầu La chính là hoài bão của công chúa Da Du Đà
La, nhưng khi quyết định cho cậu xuất gia, đức Phật cũng đã có dụng ý rồi.
Nguyên vì, La Hầu La đã ra đời khi Phật còn là thái tử. Sau đó Ngài đã xuất
gia, và giờ đây đã thành đạo, thì ngôi vua của bộ tộc Thích Ca sau này tất sẽ
do La Hầu La kế thế, nhưng theo chủ trương của Ngài, một cậu bé tuổi còn quá nhỏ
như La Hầu La thì không thể làm chủ thiên hạ được. Cho nên nhân cơ hội này,
Ngài bèn phương tiện để cho cậu xuất gia.
Biết La Hầu La đã xuất gia rồi, Da Du Đà La buồn lắm!
Nhưng sự việc đã như vậy rồi, bà đâu biết làm gì hơn. Vua Tịnh Phạn thấy bà buồn
thì rất thương xót; hơn nữa, chính nhà vua cũng buồn nhớ cháu nội vô cùng, cho
nên ngài đã thân hành đi thăm Phật và tỏ bày ý kiến của mình:
- Bạch Thế Tôn! Xin hãy lập qui chế hẳn hòi, từ
nay về sau, các trẻ em muốn xuất gia thì phải được phép của phụ huynh trước đã.
Phật thấy ý kiến đó hợp lí, nên đã hoan hỉ chấp
thuận.
Về phần Da Du Đà La, sau khi chồng đã ra đi tìm đạo,
thì La Hầu La là niềm vui là và niềm hi vọng duy nhất của bà. Bây giờ đến lượt
La Hầu La cũng đi tu nốt thì mọi thứ trên cõi đời đối với bà còn có nghĩa gì!
Lòng bà trở nên nguội lạnh, mất hết niềm vui. Bởi vậy sau này, khi thái hậu Kiều
Đàm Di được Phật cho phép xuất gia và thành lập tăng chúng tì kheo ni, bà cũng
đã cùng với những phụ nữ khác trong dòng họ Thích Ca, đến Tì Xá Li (Vaisali -
Vesali) để xin xuống tóc xuất gia. Những ngày đầu bà vẫn không cảm thấy phấn khởi
với nếp sống mới trong giáo đoàn, nhưng nhờ Phật hết lòng giáo hóa, chẳng mấy
chốc bà chứng ngộ đạo quả, lấy lại niềm vui, sống tràn đầy an lạc trong chánh
pháp. Bà vô cùng hoan hỉ và cảm kích ân đức sâu xa của Phật. Phật cũng rất hoan
hỉ đã hoàn thành trách nhiệm thiêng liêng đối với bà.
4.- TUỔI TRẺ
NGHỊCH NGỢM
Từ khi La Hầu La xuất gia thì tăng đoàn thiết lập
thêm chế độ sa di.
La Hầu La tuy đã xuất gia, nhưng bảo chú phải tu tập
nghiêm túc như người lớn thì thật là khó! Một chú bé còn nhỏ tuổi như La Hầu
La, hàng ngày phải sống gò bó trong tăng đoàn, nếu là do ý muốn thì không có gì
để nói, nhưng nếu vì do hoàn cảnh bắt buộc thì trong tâm lí thế nào cũng nảy
sinh nhiều biến chứng khó mà lường được. La Hầu La xuất gia nhưng đã không cảm
thấy có gì vui vẻ trong đời sống tăng đoàn, có điều là chú không dám nói ra những
cảm nghĩ khó chịu của mình mà thôi. Thường thì trẻ em dưới mười lăm tuổi, đối với
những lời chỉ bảo của người lớn, chỉ biết một điều vâng hai điều dạ mà thôi;
nhưng một khi đã qua khỏi tuổi mười lăm rồi thì tự nhiên chúng biết bất mãn, biết
phản ứng lại những gì không bằng lòng. Chẳng biết La Hầu La có trải qua cái
giai đoạn tâm lí đó không, chỉ biết rằng, khoảng mười bảy, mười tám tuổi, tính
tình của chú thật ôn nhu, làm việc rất chăm chỉ, nhưng lại thích đùa nghịch như
con nít, nhất là thường dối gạt người làm trò vui.
Lúc đó chú đang ở tại rừng Ôn Tuyền (Amrayastika -
Ambalatthika), ngoại ô thành Vương Xá (Rajagrha - Rajagaha). Có rất nhiều các vị
quan viên, trưởng giả, cư sĩ thường đến tìm thăm Phật. Gặp chú, họ hỏi thăm Phật
hiện ngự ở đâu, thì thế nào chú chú cũng nghĩ cách để trêu ghẹo. Nếu Phật đang
ngự tại Trúc Lâm (Venuvana - Veluvana) thì chú bảo Ngài đang ở Linh Thứu
(Grdhrakuta - Gijihakuta); nếu Phật đang ngự tại Linh Thứu thì chú lại bảo là
Ngài đang ở Trúc Lâm! Nên biết rằng, Trúc Lâm và Linh Thứu cách xa nhau hơn hai
dặm đường. Sự nghịch phá của chú đã bắt người ta phải đi lại mệt nhọc mà lại
không được tham kiến Phật! Như thế mà chú đã chịu tha cho người ta đâu! Khi người
ta thất vọng trở về, chú còn vừa cười vừa hỏi:
- Sao? Quí vị đã bái kiến đức Thế Tôn chưa?
- Thưa chú, xin chú đừng trêu chọc chúng tôi nữa!
- Ai dám trêu chọc quí vị, chẳng qua là tôi lo cho
quí vị mà thôi.
Rõ ràng là La Hầu La vừa nghịch ngợm, vừa bướng bỉnh,
không bao giờ chịu nhận lầm lỗi của mình.
Thế thường, con cái của những gia đình giàu có thường
hay cậy thế lực, địa vị của cha mẹ mà làm nhiều điều tác tệ. Trường hợp của La
Hầu La xuất thân là cháu vua, con Phật, tuy được xuất gia và sống trong một
tăng đoàn bình đẳng, nhưng vì vẫn còn bé bỏng, chú vẫn được người lớn hết mực
cưng chiều. Cho nên, có thể nói rằng, cái tính ưa nghịch phá của chú, một phần
vì bị ảnh hưởng của cái tập khí cao ngạo sẵn có, một phần vì ỷ lại sự cưng chiều
của người lớn.
Một hai lần đầu, người ta còn chưa biết nhưng quá
nhiều lần thì không ai là không biết cái tính thích dối gạt người làm trò vui của
chú tiểu La Hầu La nữa, và tiếng đồn về chú đã đến tai Phật. Là một người cha
hiền, và là một bậc thầy nghiêm nghị, Phật đã rất phiền lòng khi nghe được những
lỗi lầm ấy của La Hầu La. Phật muốn đích thân dạy dỗ chú, nên một hôm Ngài đã một
mình đi đến rừng Ôn Tuyền.
5.- SỰ RĂN
DẠY NGHIÊM KHẮC CỦA PHẬT
Hôm ấy Phật sang đến rừng Ôn Tuyền với dáng vẻ thật
uy nghiêm. Thật là hoàn toàn bất ngờ đối với La Hầu La! Chú vội vàng chỉnh đốn
y áo và nghinh đón Phật thật cung kính. Đợi Phật an tọa xong, chú đi lấy nước rửa
chân cho Phật. Ngài vẫn không nói năng gì. Mãi đến khi rửa chân xong, Phật mới
chỉ chậu nước dơ mà hỏi chú:
- Này La Hầu La! Nước trong chậu này có thể uống
được không?
- Bạch Thế Tôn! Nước đó đã rửa chân, dơ lắm, không
thể uống được.
- Con cũng giống như nước trong chậu vậy! Nước vốn
trong sạch, nhưng sau khi rửa chân thì thì trở nên dơ bẩn. Con vốn là một vị
vương tôn, đã từ bỏ những vinh hoa phú quí tạm bợ của thế gian để xuất gia tu
hành. Tuy chưa là một vị tì kheo, nhưng con cũng đã thọ giới sa di. Vậy mà con
đã không siêng năng tu tập, không làm trong sạch thân tâm, nói năng không thận
trọng, suốt ngày chỉ biết dối gạt để trêu ghẹo người. Trong tâm con hiện giờ đầy
dẫy những cáu bẩn của tam độc, có khác gì chậu nước trong sạch vừa trở thành dơ
bẩn kia đâu!
Từ trước đến giơ Phật chưa bao giờ nói điều gì với
người đối diện bằng vẻ mặt nghiêm nghị như vậy. La Hầu La một mực cúi đầu đứng
im chứ không dám ngước lên nhìn Phật. Đến khi Phật bảo bưng chậu nước dơ đem đổ
đi, chú mới dám di động thân hình. Khi chú mang chậu không vào, Phật lại hỏi:
- La Hầu La! Con có thể dùng cái chậu này để đựng
cơm ăn được không?
- Bạch Thế Tôn! Trong lòng chậu cáu bẩn còn dính đầy,
không thể đựng thức ăn được.
- Con cũng giống như cái chậu ấy vậy. Tuy đã là
người xuất gia, nhưng con không tu tập giới định tuệ, không gột sạch thân miệng
ý, tâm niệm đã chứa đầy cáu bẩn thì còn chỗ đâu để chứa các thức ăn đạo lí!
Phật lại đưa chân đá nhẹ cho cái chậu lăn đi, rồi
hỏi:
- La Hầu La! Con có sợ cái chậu này bị bể không?
- Bạch Thế Tôn, không! Cái chậu rửa chân chỉ là một
đồ vật xấu, dù có bị bể cũng không đáng quan tâm.
- Con không mến tiếc cái chậu, mọi người cũng
không mến tiếc con như vậy. Tuy đã xuất gia, nhưng con không gìn giữ oai nghi,
chỉ ham dối trá đùa cợt, thì kết quả sẽ đưa lại là chẳng ai thương mến bảo bọc
con, đường giác ngộ thật xa vời, cho đến lúc chết con vẫn chìm trong mê ám!
La Hầu La toàn thân chảy mồ hôi hột! Chú thấy hổ
thẹn vô cùng. Chú tự hứa là từ nay về sau sẽ nổ lực sửa đổi tâm tính cho thật tốt.
Đức Phật lại cho chú nghe một ví dụ:
- Ngày xưa, một quốc gia nọ có nuôi một con voi lớn,
rất dũng mãnh, thiện chiến. Mỗi khi nhà vua điều binh lâm trận thì người ta mặc
áo giáp cho nó, gắn xà mâu vào cặp ngà của nó, giắt kiếm vào bên tai, cột dao
bén vào bốn chân, và buộc thêm một cây gậy sắt vào đuôi nó nữa. Tuy được trang
bị nhiều vũ khí như vậy, nhưng mỗi khi giao chiến với quân địch, nó đều lo giấu
cái vòi cho thật kín; vì đó là chỗ nhược của nó, nếu bị trúng tên thì chết
ngay. Muốn bảo vệ mạng sống, bằng mọi cách nó phải bảo vệ cái vòi. La Hầu La!
Giống như con voi kia thận trọng bảo vệ cái vòi của nó, con cũng phải thận trọng
giữ gìn lời nói của con. Nếu con cứ tiếp tục cái thói dối gạt đùa cợt thì nhất
định sẽ giống như con voi kia để cho cái vòi của nó bị trúng tên. Huệ mạng của
con sẽ tiêu mất. Mọi người sẽ xa lánh, các bậc thiện trí sẽ không ngó ngàng tới
con, đến lúc chết lại phải chịu khổ trong ba đường dữ!
Đức Phật đã tận tình tận lí, vừa thiết tha vừa
nghiêm khắc mà răn dạy La Hầu La. Mỗi lời mỗi tiếng của Ngài đều in sâu vào tâm
khảm chú. Chú phát nguyện từ này sẽ tận lực đổi mới thân tâm mình. Cũng giống
như thóc lúa, dù chúng ta đem bỏ vào máy xay thành gạo, nhưng hạt gạo vẫn còn
chút ít cám bám chung quanh, phải dùng nước vo sạch thì gạo trắng mới hoàn toàn
là gạo trắng. La Hầu La tuy có căn lành và xuất thân từ dòng giống cao quí,
nhưng phải nhờ nước cam lồ của Phật để gột rửa một phen thì mới trở nên thanh tịnh.
Từ đó, chú La Hầu La quả thật đã trở thành một con người mới.
6.- SA DI
ĐƯỌC PHÉP Ở CHUNG PHÒNG VỚI TÌ KHEO
Khi đức Phật ngự tại tu viện Cù Sư La (Ghosilarama
- Ghositarama), có tôn giả Xá Lợi Phất cùng ở bên cạnh. La Hầu La mỗi buổi sáng
phải quét dọn sân vườn sạch sẽ rồi mới vào học tập, Vì vườn rất rộng, nên công
việc của chú thường phải mất rất nhiều thì giờ. Một hôm, sau khi quét dọn xong,
chú theo đại chúng nghe Phật giảng pháp. Đến chiều tối chú trở về phòng thì thấy
phòng mình đã bị đại đức tri sự cấp cho một vị khách tăng trú ngụ, tất cả y bát
và tọa cụ của chú đều bị bỏ cả ra ngoài.
Nội qui của tăng đoàn có qui định mỗi người ở một
phòng. Bây giờ phòng mình bị chiếm thì biết làm sao? Phần vì chú còn là sa di,
đối với chư vị ti kheo phải tuyệt đối kính trọng; phần khác, chú lại cần tu tập
hạnh nhẫn nhục mà đức Thế Tôn đã từng dạy bảo; cho nên chú đã không dám vào hỏi
thẳng vị khách tăng kia vì sao lại chiếm phòng của chú, đành cứ đứng lớ ngớ ở
ngoài hiên, chưa biết phải xử trí ra sao. Ngay lúc đó, bỗng nhiên mây đen vần
vũ đầy trời, rồi mưa tuôn xối xả. Không còn chỗ nào để trú ẩn, chú liền chạy
vào nhà xí thật hôi hám, nhưng chú đành phải ngồi trong đó chứ không còn cách
nào khác! Trong một phút một giây, chú thoáng cảm nhận cái nỗi hiu quạnh của một
kẻ không có nhà cửa để trở về! Nhưng rồi chú đã thản nhiên thiền tọa ngay trong
nhà xí ấy. Chú cố vận dụng lời Phật dạy để giữ tâm ý an tịnh, dù phải trải qua
những hoàn cảnh khó khăn hay phải trực diện với những thực tế phủ phàng như thế
nào. Sự tu tập của chú lúc này quả có tiến bộ rõ rệt.
Trong khi chú thiền tọa trong nhà xí thì ngoài trời
mưa càng lúc càng dữ dội. Những nơi đất thấp đều bị nước ngập. Một hang rắn ở gần
nhà xí bị ngập nước, một con rắn đen ở trong đó chui ra và bò dần vào nhà xí.
Đó là loại rắn độc nhiệt đới, cực kì nguy hiểm. Tính mạng của chú đang bị đe dọa,
nhưng chú hoàn toàn không hay biết gì!
Đức Phật đang tĩnh tọa trong tịnh thất, ngay lúc ấy
bỗng nhớ tới La Hầu La. Bằng thiên nhãn, Ngài quán sát thấy được mối nguy hiểm
của chú đã gần kề, bèn tức khắc đến ngay nhà xí ấy. Ngài đằng hắng một tiếng.
Bên trong có tiếng đằng hắng đáp lại. Phật hỏi:
- Ai ở trong đó?
- Dạ, con là La Hầu La.
- Con hãy ra ngay, ta có chuyện cần nói!
La Hầu La đã nhận ra, đúng là giọng nói của Phật.
Thật là ngoài sức tưởng của chú! Chú liền ra khỏi nhà xí, và như quên hết mọi
chuyện, chú bất giác ôm chầm lấy Phật, nước mắt chảy đầm đìa ... Dù sao chú vẫn
con bé bỏng, cho nên đã không thể kềm chế tình cảm được trong hoàn cảnh này. Phật
hỏi chú vì sao phải ngồi trong nhà xí, chú đem mọi việc vừa qua trình lên cặn kẽ.
Phật cho phép chú được về tịnh thất của Ngài ở tạm qua đêm. Chú vui mừng không
kể xiết, như vừa từ địa ngục bước lên thiên đường!
Những chú bé còn nhỏ tuổi mà đã sớm từ bỏ gia đình
để vào sống với tăng đoàn, đúng ra là phải hưởng được sự chăm sóc chu đáo của
quí thầy; bởi vậy, Phật đã ra huấn thị, cho phép các chú sa di từ nay được ở
chung phòng với quí thầy trong hai đêm. Những việc nhỏ như vậy đức Phật cũng
quan tâm đến, cho thấy tình thương của Ngài đối với các chú sa di là như thế
nào!
Xưa nay quí thầy khi thu nạp đệ tử thì phải chịu
trách nhiệm dạy dỗ đệ tử của mình. Tôn giả Xá Lợi Phất là thầy của La Hầu La,
nhưng vì thường bận giúp Phật đi ra ngoài hoằng hóa, nên tôn giả đã không thường
xuyên chăm sóc đến chú được. Từ khi sự việc trên xảy ra, tôn giả đã cho chú
luôn luôn theo ở bên cạnh mình.
7.- ĐỨC NHẪN
NHỤC
Sau lần bị Phật quở trách nặng nề về tội dối gạt,
và từ khi được luôn sống kề cận bên thầy để được thường xuyên dạy dỗ. La Hầu La
đã tiến bộ rất nhanh trong công phu tu tập. Bất cứ buổi pháp thoại nào của Phật,
tôn giả Xá Lợi Phất cũng dẫn chú theo dự thính. Tôn giả thiền tọa chỗ nào cũng
có chú ngồi bên cạnh. Tôn giả đi hoằng pháp nơi đâu cũng đem theo chú theo để
chú học tập những kinh nghiệm độ sinh. Mỗi buổi sáng đi khất thực, chú đều theo
sau thầy ... Bởi vậy, thuở ấy trong tăng đoàn đã có lời xưng tán rằng, tôn giả
Xá Lợi Phất là đức Phật thứ hai, và là bậc ân sư tốt nhất của La Hầu La!
Một hôm chú theo thầy vào thành Vương Xá khất thực.
Giữa đường gặp phải một anh chàng du côn. Hắn bỏ cát vào bát của tôn giả và
dùng gậy đánh lên đầu chú, gây thương tích, máu nhỏ xuống áo từng giọt. Đã thế
hắn còn chửi:
- Mấy lão sa môn kia chỉ biết đi xin ăn để sinh sống,
miệng thì nói toàn những từ bi, nhẫn nhục, vậy ta đánh lỗ đầu chúng bây, để thử
coi chúng bây làm gì được ta!
Lúc này La Hầu La đã mười bảy, mười tám tuổi. Ở
cái tuổi thanh niên ấy mà gặp những trường hợp như thế này thì không thể chịu
được. Sự căm giận của chú đã hiện rõ trên nét mặt. Tôn giả thấy thế liền dạy rằng:
- La Hầu La! Đã là học trò của Phật thì ta phải học
tập đức tính nhẫn nhục, trong tâm không chứa nọc độc của sân hận, và phải phát
triển lòng từ bi, thương yêu tất cả chúng sinh. Phật thường dạy chúng ta, lúc
được ngợi khen không sinh lòng cao ngạo, khi bị nhục mạ không để tâm oán hận.
Do đó, con hãy giải tỏa lòng căm giận đi và tập nhẫn nhục. Này La Hầu La, trên
thế gian không có sức mạnh nào sánh bằng sức mạnh của đức nhẫn nhục. Bất kể lực
lượng nào của cõi trời và cõi người, đều không thể thắng nổi người nhẫn nhục.
Vâng lời thầy dạy, chú lặng lẽ tiến đến bờ hồ gần
đấy, khoác nước rửa sạch vết thưong, rồi xé một miếng vải nhỏ đắp lên. Tôn giả
trông theo từng cử chỉ của chú mà trong lòng vừa thương xót vừa hoan hỉ.
La Hầu La đã nhịn nhục được sự việc vừa qua và tiếp
tục theo thầy đi khất thực. Trên đường về, chú đã trình lên tôn giả vài ý nghĩ
của mình:
- Sự việc không hay vừa rồi, hiện giờ con không
còn để tâm đến nữa. Nhưng con nghĩ, trên thế gian này sao có lắm kẻ ác, đi tới
đâu cũng thấy toàn việc đáng chán! Tuy nhiên, con không hận đời, mà chỉ cảm thấy
buồn khi nghĩ đến những kẻ thiếu hiểu biết trên cõi đời này sao mà quá nhiều! Đức
Thế Tôn từng dạy chúng ta hãy lấy tình thương rộng lớn mà đối xử với người đời,
nhưng người đời lại cuồng si ngạo mạn khi dễ chúng ta. Quí thầy tu tập hạnh nhẫn
nhục, tích tụ công đức cao dầy, nhưng những kẻ mê muội lại khinh miệt quí thầy
và tôn kính những kẻ hung tàn độc ác. Những điều giáo huấn của đức Thế Tôn vừa
là chân lí, vừa là tình thương, nhưng người ta lại cho là hôi như xác chết; giống
như trời mưa xuống toàn nước mát ngọt mà những con heo thì không biết lầy dùng,
lại cứ thích ăn uống những đồ hôi hám và nằm ở những chỗ dơ bẩn! Bởi thế, nếu
đem những lời dạy của đức Thế Tôn về chân lí, về tình thương để nói cho những kẻ
hung ác và không có căn lành nghe, thì chỉ là vô ích, vì sẽ chẳng có hiệu quả
gì!
Đây là lần đầu tiên La Hầu La trình bày với tôn giả
về tư tưởng cũng như cái nhìn của chú đối với cuộc đời. Tôn giả lắng nghe và rất
hoan hỉ. Về đến tu viện, tôn giả lại đem những điều trình bày của La Hầu La
thưa lên Phật, và Phật cũng rất vui. Phật khen ngợi chú hôm nay đã có nhiều tiến
triển, có thái độ đúng đắn đối với kẻ ác, có cái thấy đúng đắn đối với cuộc đời.
Rồi nhân đó ngài dạy thêm chú:
- Người không biết nhẫn nhục thì không thể thấy được
sự hiệu dụng của Phật pháp. Oán người giận đời là đi ngược lại với giáo pháp và
xa rời đoàn thể, quẩn quanh trong vòng khổ đau. Có nhẫn nhục mới có bình an và
tiêu trừ được tai họa. Người có trí tuệ thì thấy được mối nhân quả sâu xa, do
đó sẽ khắc phục được tâm sân hận và triệt để thực hành hạnh nhẫn nhục. Cái nhìn
theo tinh thần Phật pháp khác xa với cái nhìn của người thế tục. Những gì mà
người đời cho là quí báu thì Phật pháp coi là tầm thường; những điều Phật pháp
bảo là tốt, là đúng thì người đời không chịu thực hành theo.
Trung và nịnh không dung nhau; kẻ gian tà thì
không chịu được sự có mặt của người chính trực; kẻ ác thì không thích đi cùng
đường với người hiền; người đầy lòng tham dục thì rất ghét nghe nói đến hạnh vô
dục. Trong tình huống hoàn toàn đối nghịch nhau như vậy, người tu hành chỉ nhẫn
nhục là tốt nhất. Nhẫn nhục là tàu bè trên biển cả, có thể cứu vớt mọi tai nạn.
Nhẫn nhục là thuốc hay, có thể cứu sinh mạng người trong cơn nguy cấp. Nhẫn nhục
chính là tăng thượng duyên của người hành đạo, khiến cho sớm chứng quả giải
thoát. Sở dĩ ngày nay ta thành chánh giác, một mình bước đi trong khắp ba cõi,
nhận được sự kính ngưỡng của cả trời và người, là vì tâm ta đã đủ sức để an ổn.
Cho nên con phải biết, đức nhẫn nhục quí báu đối với người hành đạo biết chừng
nào!
8.- CON ĐƯỜNG
GIÁC NGỘ
La Hầu La bị người khác chiếm phòng nhưng đã tự ý
nhượng bộ, giữa đường bị kẻ côn đồ đánh cho lỗ đầu mà vẫn nhịn nhục, công phu
tu dưỡng của chú đến mức đó thì tiến trình giác ngộ chắc không còn xa lắm.
La Hầu La thông minh, lại rất tinh tấn trong việc
tu tập. Năm hai mươi tuổi, chú được Phật cho phép thọ giới cụ túc. Chú sa di
hay trêu chọc đùa nghịch thuở trước, bây giờ đã trở thành một vị tì kheo trang
nghiêm, đường bệ. Lúc còn bé thì hoạt náo như thế đó, mà hôm nay xem cung cách
của thầy thì như là một vị lão thành cẩn trọng. Những buổi hội họp đông người,
thầy ít khi tham dự; suốt ngày im lìm, chỉ một mực dụng công tu tập.
Nhưng dù dụng công đến thế nào, thầy vẫn không
khai ngộ được. Nguyên nhân lớn nhất có lẽ là thầy vẫn chưa quên được cái xuất
thân cao quí của mình. Dù sao thì thầy cũng là con yêu của Phật, cháu nội cưng
quí của vua Tịnh Phạn. Ngoại trừ những vị đệ tử thượng thủ của Phật ra, phần lớn
các vị tì kheo trong tăng đoàn đều kính trọng, ái mộ, khen ngợi thầy. Trẻ tuổi
mà thường được tâng bốc thì rất dễ bị động tâm. Lời ngon tiếng ngọt thật đáng sợ
như ác quỉ, đã khiến cho La Hầu La, dù tinh tấn rất nhiều, vẫn không chứng ngộ.
Thậm chí có một đại đức đã tìm cơ hội hỏi đức Phật về vấn đề chứng ngộ của thầy
La Hầu La:
- Bạch Thế Tôn! Đại đức La Hầu La nghiêm trì giới
luật, tinh tấn tu tập, một lỗi nhỏ cũng không phạm, dốc lòng cầu được khai ngộ,
nhưng vì sao đại đức vẫn không đạt được chí nguyện?
Đức Phật trả lời một cách quả quyết:
- Nếu thật sự giữ gìn giới pháp, giữ tâm thanh tịnh,
giữ thân đoan chính, thì nhất định các cặn bã phiền não phải bị tiêu trừ, và dần
dần sẽ chứng đạt quả vị giải thoát.
Phật không mấy quan tâm đến việc chưa chứng ngộ của
đại đức La Hầu La, vì Ngài tin tưởng rằng, cái ngày trọng đại ấy chắc chắn sẽ đến
với đại đức.
Có lần đại đức dường như đã chứng ngộ, nhưng khi
trình lên Phật những kiến giải của mình. Phật bảo là đại đức vẫn chưa thành
công. Phật dạy đại đức hãy thường thuyết giảng về giáo nghĩa “Thân người là do
năm uẩn tạm kết hợp mà có”; và hãy thường xuyên quán chiếu các vấn đề như ngã mạn,
ngã, vô ngã, khổ, vui v.v...
Một buổi sáng kia, đại đức theo Phật vào thành Xá
Vệ (Sravasti - Savatthi) du hóa. Phật dẫn đại đức đi qua nhiều nơi, hết đường lớn
tới hẻm nhỏ, rồi dạy:
- La Hầu La! Thầy hãy quán chiếu để thấy rõ sắc là
vô thường; thọ, tưởng, hành, thức cũng là vô thường; thân thể và tâm ý của mọi
người đều là vô thường; đến cả vạn sự vạn vật đầy dẫy trong thế gian kia, tất cả
cũng đều là vô thường. Đã thấy rõ lẽ vô thường rồi thì tâm ta sẽ không còn bị
vướng mắc vào đâu nữa.
Vừa nghe mấy lời dạy giản dị của đức Phật, tâm trí
của đại đức bỗng bừng sáng ra! Đại đức xin phép Phật một mình trở về tu viện
trước, tìm nơi vắng vẻ, ngồi xuống trong tư thế hoa sen, tập trung tâm ý quán
chiếu các nguyên lí sâu xa Phật vừa dạy. Đại đức cũng vận dụng phép quán từ bi
để trừ khử tâm sân hận; vận dụng phép quán bất tịnh để rửa sạch tâm tham dục; vận
dụng phép quán trí tuệ để chuyển hóa tâm si mê; vận dụng phép quán đếm hơi thở
để ngưng tụ tâm loạn động; cứ thế, đại đức đi sâu vào đại định ... Cơ duyên đã
đến lúc chín mùi, đại đức hoát nhiên đại ngộ!
Php vừa trỏ về đến tu viện, liền đi ngay đến chỗ đại
đức đang ngồi thiền, khai thị thêm:
- Hãy vận dụng tâm từ bi rộng lớn để đối xử với mọi
người và mọi loài. Dùng tâm lượng bao la để có thể dung chứa tất cả chúng sinh
thì tiêu trừ được mọi phiền não; dùng phép đếm hơi thở để quán chiếu tâm ý thì
đạt được đạo quả giải thoát.
Đại đức từ từ đứng dậy, đảnh lễ Phật, rồi thưa:
- Kính lạy Thế Tôn! Tất cả mọi phiền não nơi con
bây giờ đã dứt sạch; bây giờ con vừa tỏ ngộ!
Đức Phật vô cùng hoan hỉ, liền khen ngợi:
- Trong tất cả đệ tử của Như Lai, thầy là người tu
mật hạnh bậc nhất!
Sở dĩ gọi là “mật hạnh” là vì đối với ba ngàn oai
nghi và tám vạn tế hạnh của một vị tì kheo, tôn giả La Hầu La đều nắm vững và
hành trì nghiêm mật.
Nhớ lại thuở ban đầu cậu bé La Hầu La chạy theo Phật
để xin tài sản, bây giờ đã chứng ngộ, chẳng phải là Phật đã ban cho tôn giả thứ
pháp tài vô giá đó sao?!
9.- CHẾ ĐỘ
HIẾN CÚNG TỰ VIỆN
Khi đã chúung ngộ rồi, địa vị của tôn giả La Hầu
La trong tăng đoàn càng được đề cao. Đối với tín đồ tại gia, tôn giả cũng được
đặc biệt kính mộ. Ai cũng biết, trong chúng tì kheo, tôn giả là người được cúng
dường nhiều nhất.
Xưa nay, việc cúng dường vật chất càng dồi dào thì
việc tu tập càng dễ bị chướng ngại. Nhưng đối với tôn giả thì không hề gì, vì
tôn giả đã không còn bị lụy về vật chất nữa. Bất cứ vật gì, nếu có hơn một cái
thì tôn giả liền đem chia cho vị khác.
Một ngày nọ, lúc Phật bố giáo tại một thôn trang gần
thành Ca Tì La, có một vị trưởng giả ngưỡng mộ và phát tâm qui y theo Phật. Có
lẽ vì có duyên với tôn giả La Hầu La, hoặc là vì nặng tình địa phương, ông đã
phát tâm đặc biệt hộ pháp cho tôn giả. Bất cứ tôn giả có nhu cầu gì, ông đều
chu cấp đầy đủ. Về sau ông đã xây cất một ngôi chùa để hiến cúng cho tôn giả cư
trú. Vào thời buổi đó, số lượng tăng chúng du phương hành hóa đã gia tăng rất
đông, nên ngôi chùa của tôn giả lúc nào cũng có khách tăng ghé lại nghỉ chân. Vị
trưởng giả thấy thế thì nghĩ rằng, ngôi chùa là của ông hiến cúng, cho nên ông
phải đích thân tham dự vào việc quản trị chùa. Tôn giả bèn đem việc ấy thỉnh ý
Phật. Phật dạy:
- Thầy La Hầu La! Trong giáo pháp của Như Lai,
hàng cư sĩ tại gia không được quản lí bất cứ việc gì thuộc phạm vi của chúng
tăng. Dù chư thiện tín có phát tâm hiến cúng tự viện thì họ cũng không thể nại
lí do đó để can dự vào việc quản trị tự viện. Thầy nên giảng giải cho vị trưởng
giả ấy biết, đã hiến cúng vật gì cho ai rồi thì không nên nghĩ rằng vật đó vẫn
còn là sở hữu của mình. Chùa là do chư tăng trú trì; còn chư thiện tín thì giữ
vai trò hộ pháp.
Tôn giả y lời Phật mà giảng giải lại cho vị trưởng
giả, nhưng vì chưa thấm nhuần Phật pháp lắm, ông vẫn một mực cố chấp, không
buông bỏ được ý niệm mình vẫn là sở hữu chủ của ngôi chùa. Vì vậy, cảm tình của
ông đối với tôn giả đã bị sứt mẻ. Trước đây ông đã kính mộ tôn giả thật nhiều,
nhưng bây giờ ông lại thấy tôn giả như cái đinh trước mắt. Rồi một hôm, tôn giả
có duyên sự phải sang thành Xá Vệ. Vị trưởng giả lên chùa thấy vắng tôn giả,
bèn thừa cơ hội, đem ngôi chùa ấy cúng dường cho một vị tì kheo khác! Khi tôn
giả trở về, thấy sự việc đã như vậy, liền trở lại ngay Xá Vệ để trình cho Phật
biết sự tình. Phật nghĩ, người đã không thấm nhuần Phật pháp thì thật khó mà thực
hành Phật pháp một cách đúng đắn. Nhân sự việc này, Phật dạy:
- Này quí thầy! Từ nay, nếu có vị thí chủ nào đã
hiến cúng vật gì cho thầy này, rồi lấy lại vật đó đem cúng dường cho thầy kia,
thì thầy kia không nên nhận.
Không phải là Phật đã thiên vị tôn giả La Hầu La
mà ban hành pháp chế, sự thực là vì để tránh những rắc rối về sau cho giáo
đoàn. Nhưng rất tiếc, phần nhiều những tranh chấp tài sản trong nội bộ Phật
Giáo ngày nay đều bắt nguồn từ những nguyên nhân tương tự.
10.- NHẬP
NIẾT BÀN
- La Hầu La không phải là một nhân vật tiếng tăm lừng
lẫy trong tăng đoàn thuở đó như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, A Nan.
Tôn giả chỉ chuyên tu mật hạnh, không bao giờ tranh luận, suốt ngày kín tiếng lặng
hơi, im lìm tu tập. Tôn giả bẩm tính nhu thuận, kiên cường, nhưng trong nếp sống
của một vị tì kheo, tôn giả đã không tỏ ra có gì là sôi nổi cả. Cho nên chúng
ta không lấy làm lạ rằng, trong kinh điển không hề thấy ghi lại bất cứ một hoạt
động hoằng pháp hay một cuộc tranh luận với ngoại đạo nào của tôn giả. Tôn giả
chỉ là người tinh nghiêm giữ gìn oai nghi tế hạnh; bởi vậy, đúng như Phật đã
khen ngợi, tôn giả là vị đứng đầu tăng đoàn về tu mật hạnh.
Tôn giả nhập diệt vào lúc nào? Trước hết, ngay như
về ngày sinh của tôn giả cũng đã có hai thuyết, một cho rằng tôn giả ra đời năm
Phật mười chín tuổi; một cho rằng tôn giả ra đời năm Phật hai mươi lăm tuổi.
Cho nên về niên đại nhập diệt, hiện cũng có hai thuyết, một bản rằng tôn giả đã
nhập diệt trước Phật vài năm; một bảo rằng trong giờ phút Phật nhập niết bàn,
tôn giả vẫn có mặt bên cạnh Phật.
Ấn Độ là một quốc gia không chú trọng đến việc ghi
chép lại những sự thật lịch sử; còn Trung Hoa thì lại không ít những nhà dịch
thuật giàu tưởng tượng, hay khoa trương, phóng đại. Những chi tiết không xác thật
trong sự tích của Phật và các vị đệ tử lớn được ghi chép trong các kinh điển, cần
phải được nghiên cứu lại.
Dựa vào các chứng cứ đáng tin cậy trong kinh điển
thì ni sư Da Du Đà La (thân mẫu của tôn giả La Hầu La) nhập diệt năm bảy mươi
tám tuổi; còn tôn giả thì nhập diệt trước đó nữa. Kinh chép, một buổi tối nọ,
ni sư Da Du Đà La đã quán niệm như sau: “... Các ni sư Kiều Đàm Di, Liên Hoa Sắc
(Utpalavarna - Uppadavanna) đều đã nhập diệt; La Hầu La cũng đã nhập diệt! Ta
sinh cùng năm với đức Thế Tôn. Năm nay ta đã bảy mươi tám tuổi rồi. Nghe nói
năm tám mươi tuổi đức Thế Tôn sẽ nhập niết bàn. Ngày trước vốn có nguyện cùng
Người đồng sinh đồng tử, nhưng ngày nay thì giữa ta và Người chỉ có tình đạo chứ
đâu còn tình riêng. Cho nên, nếu đợi cùng nhập diệt với Người thì thật là bất
kính. Vậy ta nên nhập diệt trước Người thì phải hơn!” Nghĩ vậy, ni sư liền xin
phép, và được Phật chấp thuận. Đêm đó, ni sư nhập định rồi nhập diệt ngay trong
phòng riêng.
Căn cứ vào sự kiện trên, chúng ta biết tôn giả La
Hầu La đã nhập diệt trước cả cha mẹ, vào khoảng trên dưới năm mươi, nhưng không
quá sáu mươi tuổi.
Dĩ nhiên, việc nhập diệt sớm hay muộn của tôn giả
không phải là việc quan trọng, mà chính sự nghiệp giác ngộ là mục đích tối hậu
của người tu hành. Tôn giả đã đạt được nó thì sự nhập diệt chỉ là sự xả bỏ cái
sắc thân tạm bợ để an trú vĩnh viễn trong pháp tánh thường hằng mà thôi.
-ST-