Ý NGHĨA HÌNH THÀNH TÊN CỦA 63 TỈNH THÀNH VIỆT NAM!
1. HÀ NỘI
Sau khi diệt được triều đại Tây Sơn vua Gia Long đổi phủ Phụng
Thiên (Đất kinh thành cũ Thăng Long) thành phủ Hoài Đức thuộc Tổng Trấn Bắc
Thành. Năm Minh мạหg thứ 12 (1831) vua lại bỏ Bắc Thành và 11 Trấn và thay bằng
29 Tỉnh. Tỉnh Hà Nội ra đời và gồm có thành Thăng Long, phủ Hoài Đức (của Tây
Sơn) và ba phủ Ứng Hòa, Thường Tín, Lý Nhân của Trấn Sơn Nam. Hà (sông) Nội
(bên trong), Hà Nội có nghĩa là thành phía trong sông, vì tỉnh Hà Nội được bao
bọc bởi sông Hồng và sông Đáy (tài liệu tham khảo: 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội,
Tô Hoài)
2. BẮC GIANG
Bắc Giang thuộc bộ Võ Ninh thời vua Hùng dựng nước Văn Lang,
đời Lý – Trần gọi là łộ Bắc Giang, đời Lê là phủ Bắc Hà, năm 1822 đổi là phủ
Thiên Phúc, đến đời Tự Đức là phủ Đa Phúc. Đến nay chưa thấy tài liệu nào chứng
minh, nhưng tên gọi Bắc Giang có nghĩa là phía bắc sông.
3. BẮC KẠN
Bắc Kạn là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Bản sao bài
văn Ъ¡ค “Tam hải hồ sơn chí” bằng tiếng Háห khắc trên đá dựng ở Bó Lù, bờ hồ Ba
Bể, do tác giả Phan Đình Hoè áห รáт tỉnh Bắc Kạn viết, ông Vi Văn Thượng
khắc và dựng Ъ¡ค năm 1925: Chữ “Kạn” trong từ Bắc Kạn có bộ “tài gẩy” bên chữ
“Can”, âm Háห Việt đọc là “cản”, chữ này có nghĩa là “ngăn giữ, bảo vệ, chống cự”
(phía bắc).
4. BẮC NINH
1822 từ một phần xứ Kinh Bắc. Thời kỳ Hồng Bàng, nước Văn
Lang chia làm có 15 bộ, bộ Vũ Ninh là vùng lãnh thổ thuộc phần lớn tỉnh Bắc
Ninh hiện nay. Tên gọi Bắc Ninh có thể từ Kinh Bắc và Vũ Ninh mà thành.
5. CAO BẰNG
Cao Bằng xưa thuộc bộ Vũ Định thời Hùng Vương, đến đời Lý về
sau là đất Thái Nguyên. Năm 1467 gọi là phủ Bắc Bình, về sau đổi thành phủ Cao
Bình. Năm 1676, nhà Lê thu phục từ tay nhà Mạc đặt lại thành trấn Cao Bình. Đến
đời Tây Sơn, tên Cao Bình dần trại ra thành Cao Bằng cho đến bây giờ.
6. ĐIỆN BIÊN
Điện Biên là vùng đất cổ. Điện Biên Phủ vốn được gọi là Mường
Thanh, từ chữ Mường Then theo tiếng dân tộc Thái, nghĩa là Xứ trời. Đây được xem
là vùng đất thiêng ở miền biên viễn, theo quan niệm xưa, là nơi thông trời đất.
Tên gọi Phủ Điện Biên, hay Điện Biên Phủ được vua Thiệu Trị đặt vào năm 1841,
chữ Điện hiểu theo nghĩa này nghĩa là một vùng núi to nhưng đất thiêng, là điện
thờ, Biên là biên viễn.
7. HÀ GIANG
Hà Giang, theo cách giải thích về nghĩa chữ là con sông nhỏ
chảy vào dòng lớn. Cụ thể ở đây là Sông Miện chảy vào Sông Lô
8. HẢI DƯƠNG
Hải Dương có tên chính thức từ năm 1469, ý nghĩa “Hải là miền
duyên hải” vùng đất giáp biển, “Dương là ánh sáng” ánh mặt trời. Hải Dương nằm ở
phía đông kinh thành Thăng Long. Hướng Đông cũng là hướng mặt trời mọc. Vì vậy
Hải Dương có nghĩa là “ánh mặt trời biển Đông” hay “ánh sáng từ miền duyên hải
(phía đông) chiếu về”. Trong “Dư địa chí”, Nguyễn Trãi đã đánh giá Hải Dương là
trấn thứ nhất trong bốn kinh trấn và là phên giậu phía đông của kinh thành
Thăng Long.
9. HẢI PHÒNG
Cảng, thành phố Hoa phượng đỏ, thành lập vào năm 1888. Cái
tên Hải Phòng có thể là gọi rút ngắn trong cụm từ “Hải tần phòng thủ” của nữ tướng
Lê Chân đầu thế kỉ 1, hoặc từ tên gọi rút ngắn từ tên gọi của một cơ quan đời Tự
Đức trên đất Hải Dương: Hải Dương thương chính quan phòng, cũng có thể bắt nguồn
từ ti sở nha Hải phòng sứ hay đồn Hải Phòng do Bùi Viện lập từ năm 1871 đời Tự
Đức.
10. HÀ NAM
Hà Nam được thành lập năm 1890, Nam Định được tách ra thành tỉnh
Thái Bình và một phần phía bắc tách ra để cùng một phần phía nam Hà Nội lập
thành tỉnh Hà Nam. Hà lấy từ chữ Hà Nội, Nam lấy từ chữ Nam Định.
11. HOÀ BÌNH
Hòa Bình là tỉnh được thành lập năm 1886 theo nghị định của
Kinh lược Bắc Kỳ với tên gọi là tỉnh Mường. Tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Chợ Bờ nên
cũng còn gọi là tỉnh Chợ Bờ, cuối năm 1886 chuyển về xã Phương Lâm, năm 1888 đổi
tên thành tỉnh Phương Lâm. Năm 1896 tỉnh lỵ được chuyển về đóng tại xã Hòa
Bình, phía bờ trái sông Đà, đối d¡ệห với Phương Lâm và từ đó gọi là tỉnh
Hòa Bình, sau nhiều lần tách nhập, đến nay vẫn giữ tên gọi này.
12. HƯNG YÊN
Tỉnh được thành lập năm 1831 gồm các huyện Đông Yên, Kim Động,
Thiên Thi, Tiên Lữ, Phù Dung của trấn Sơn Nam và Thần Khê, Hưng Nhân, Duyên Hà
của trấn Nam Định. Vùng đất Hưng Yên หổi danh từ thời kỳ Trịnh – Nguyễn
phân tranh đã หổi tiếng do có Phố Hiến, dân gian có câu “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố
Hiến”.
13. LAI CHÂU
Lai Châu có tên gọi xuất phát từ chữ châu Lay. Vào đầu thế kỷ
X, các thủ lĩnh Thái chiếm vùng đất này đã đặt tên là Mường Lay, năm 1435 Dư địa
chí của Nguyễn Trãi ghi là châu Lai do phiên âm chữ Lay.
14. LẠNG SƠN
Lạng Sơn là một trong 13 tỉnh được vua Minh mạng thành lập đầu
tiên ở Bắc Kỳ (năm 1831), tên gọi xuất phát từ danh xưng “xứ Lạng”.
15. LÀO CAI
Lào Cai là cách phát âm của người địa phương đọc chữ Lão Nhai
có nghĩa là Phố Cũ hoặc Chợ Cũ. Người địa phương thường gọi Bảo Thắng, là khu
phố do Lưu Vĩnh Phúc xây dựng nằm ở vùng thuộc thị xã Lào Cai ngày nay bằng tên
Lảo Kay, sau đó người Pháp cũng phiên âm lại cách gọi đó bằng chữ Latinh là Lao
Kai hoặc Lao Kay.
16. NAM ĐỊNH
Nam Định có nguồn gốc tên gọi từ năm 1822, khi triều Nguyễn đổi
tên trấn Sơn Nam Hạ thành trấn Nam Định, chữ Nam có từ thời Lê nghĩa là phía
Nam chữ Định nghĩa là bình định là chữ nhà Nguyễn đặt cho nhiều vùng đất. Năm
1832 đổi trấn Nam Định thành tỉnh Nam Định (bao gồm cả Thái Bình và một phần đất
Hà Nam hiện nay). Năm 1890, Thái Bình tách ra thành tỉnh riêng và một phần phía
bắc Nam Định tách ra để cùng một phần phía nam Hà Nội lập thành tỉnh Hà Nam.
17. NINH BÌNH
Ninh Bình nghĩa là phẳng lặng, yên ổn, yên tĩnh có tên là đạo
Ninh Bình từ năm 1822, năm 1831 đổi thành tỉnh Ninh Bình.
18. PHÚ THỌ
Phú Thọ là tên gọi xuất phát từ tên làng Phú Thọ thuộc tổng
Yên Phú, huyện Sơn Vi, tỉnh Hưng Hóa mà lập nên thị xã Phú Thọ năm 1903. Sau đó
Pháp chuyển tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Hóa lên thị xã Phú Thọ và đổi tên tỉnh Hưng
Hóa thành tỉnh Phú Thọ.
19. QUẢNG NINH
Quảng Ninh là vùng đất lịch sử lâu đời. Ở khu vực Vịnh Hạ
Long đã khảo cổ được di chỉ của người tiền sử từ 3000 – 1500 năm TCN. Khi hình
thành Nhà nước đầu tiên của người Việt, thời Hùng Vương vùng đất Quảng Ninh nay
là bộ Lục Hải. Một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang. Thời Phong kiến khu vực tỉnh
Quảng Ninh hiện nay có tên lần lượt là: Lục Châu, łộ Đông Hải, łộ Hải Đông, trấn
An Bang, tỉnh Quảng Yên. Sau này Quảng Yên được tách ra thành nhiều đơn vị
khác, trong đó có Hải Ninh, về sau Quảng Yên cùng với Hải Ninh và các đơn vị
này nhập thành Quảng Ninh bây giờ. Như vậy Quảng Ninh hiện nay gần như là Quảng
Yên cũ.
20. SƠN LA
Sơn La có tên gọi xuất phát từ nguồn gốc của Nậm La, một phụ
lưu cấp 2 của sông Đà. Sơn La trước năm 1479 phần lớn là lãnh thổ của vương quốc
Bồn мคห, chính thức được รáp หнập vào Đại Việt năm 1749. Năm 1886 thành lập châu Sơn La thuộc
phủ Gia Hưng tỉnh Hưng Hoá. Năm 1895 thành lập tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú tức
Tạ Bú, ngày 23/8/1904 đổi tên thành tỉnh Sơn La.
21. THÁI BÌNH
Thái Bình với tên gọi phủ Thái Bình gồm phần lớn đất đai tỉnh
Thái Bình ngày nay có từ năm 1005 với sự kiện đổi tên đất Đằng Châu thành phủ
Thái Bình. Ngày 21/3/1890 Toàn quyền Đông Dương ra nghị định lấy phủ Kiến xươหg tách từ tỉnh Nam Định và huyện Thần
Khê tách từ tỉnh Hưng Yên và รáp หнập
vào phủ Thái Bình để lập tỉnh Thái Bình, còn phủ sau đổi tên là Thái Ninh.
22. VĨNH PHÚC
Vĩnh Phúc được thành lập vào ngày 12/2/1950 do kết hợp hai tỉnh
Vĩnh Yên và Phúc Yên, nhưng do nhiều lần tách nhập nên Vĩnh Phúc hiện nay bao gồm
tỉnh Vĩnh Yên và thị xã Phúc Yên trước đây. Trong thời kỳ Pháp tạm chiếm đóng
miền Bắc giai đoạn 1946-1954, tỉnh này còn có tên gọi là tỉnh Vĩnh Phúc Yên.
23. YÊN BÁI
Yên Bái là tên được lấy từ tên làng Yên Bái, khi ngày
11/4/1900 thực dân Pháp thành lập tỉnh Yên Bái gồm có phủ Trấn Yên, hai châu
Văn Chấn, Văn Bàn và thị xã tỉnh lỵ đặt tại làng Yên Bái. Từ năm 1910 - 1920 chuyển
châu Lục Yên (tỉnh Tuyên Quang) và châu Than Uyên (tỉnh Lai Châu) vào tỉnh Yên
Bái, từ năm 1945 đã có nhiều lần tách nhập một phần hoặc cả tỉnh.
24. TUYÊN QUANG
Tuyên Quang có tên bắt nguồn từ sông Tuyên Quang mà nay là
sông Lô. “An Nam chí lược” của Lê Tắc, soạn thảo năm 1335 viết: Nước sông Quy
Hóa từ Vân Nam chảy về, nước sông Tuyên Quang từ đạo Đặc Ma chảy về, nước sông
Đà từ Chàng Long chảy về, nhân có ngã ba sông mà đặt tên như vậy. Tuyên Quang
trở thành tỉnh dưới triều vua Minh Mạng.
25. THÁI NGUYÊN
Thái Nguyên là tên gọi có gốc từ Hán Việt, Thái có nghĩa là
to lớn hay rộng rãi, Nguyên có nghĩa là cánh đồng hoặc chỗ đất rộng và bằng phẳng.
Tỉnh được thành lập năm 1831, năm 1890 chính quyền Pháp chia tỉnh Thái Nguyên
thành 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Năm 1965, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa sáp nhập 2 tỉnh với tên gọi Bắc Thái, năm 1996 lại chia tỉnh Bắc Thái để
tái lập tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Thái Nguyên. Như vậy, Thái Nguyên ngày thành lập gần
như toàn bộ tỉnh Bắc Thái cũ.
26. ĐÀ NẴNG
Đà Nẵng có tên gọi được biến dạng của từ Chăm cổ Đaknan. Đak
có nghĩa là nước, nan hay nưn, tức Ianưng là rộng. Đaknan hàm ý vùng sông nước
rộng mênh mông ở cửa sông Hàn. Có nhà nghiên cứu cho rằng “Đà Nẵng” có thể xuất
phát từ nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, Đakdơng – Đà dơng, có nghĩa là sông nguồn.
27. QUẢNG NAM
Quảng Nam có tên gọi mang ý nghĩa mở rộng về phía nam. Có thể
thấy được miền Trung có khá nhiều địa danh mang yếu tố quảng. Bởi vì đây là một
dải đất hẹp nên việc đặt tên các địa danh mang yếu tố quảng là với mong muốn sự
rộng lớn, bao la vì từ quảng mang nghĩa như vậy.
28. THỪA THIÊN HUẾ
Thừa Thiên Huế là phủ Phú Xuân dưới thời Tây Sơn. Khi vua Gia
Long chia cả nước thành 23 trấn và 4 dinh, Thừa Thiên Huế ngày nay thuộc dinh
Quảng Đức. Năm 1822, dinh Quảng Đức được vua Minh Mạng đổi tên thành phủ Thừa
Thiên. Từ năm 1831-1832, vua Minh Mạng chia cả nước thành 31 đơn vị hành chính
gồm 30 tỉnh và 01 phủ là Thừa Thiên. Cùng với sự thăng trầm theo dòng chảy lịch
sử, tên gọi và địa giới hành chính tỉnh thay đổi theo từng thời kỳ lịch sử khác
nhau và ổn định với tên gọi Thừa Thiên Huế và địa giới từ năm 1989 đến nay.
29. QUẢNG BÌNH
Quảng Bình là vùng đất được Chúa Nguyễn Hoàng đặt tên năm từ
1558, các tên gọi cũ khu vực này gồm: Bố Chính, Tân Bình, Lâm Bình, Tiên Bình,
Tây Bình. Đời Lê Trung Hưng có tên là Tiên Bình. Năm 1604, đổi tên là tỉnh Quảng
Bình, trong đó Quảng là sự rộng lớn.
30. QUẢNG TRỊ
Quảng Trị tồn tại với tên gọi Cựu Dinh Quảng Trị thuộc vào trấn
Thuận Hoá sau suốt gần 300 năm. Đến khi Gia Long lên ngôi năm 1802 đổi tên Cựu
Dinh thành ding Quảng Trị. Năm 1827 thành Quảng Trị đổi tên thành Trấn Quảng Trị,
năm 1832 trấn Quảng Trị đổi tên thành Tỉnh Quảng Trị .
31. NGHỆ AN
Nghệ An là danh xưng có từ năm 1030 thời nhà Lý, niên hiệu
Thiên Thành thứ 2 đời Lý Thái Tông, lúc đó gọi là Nghệ An châu trại,cùng với Hà
Tĩnh có cùng một tên chung là Hoan Châu thời Bắc thuộc, đời vua Lê Thánh Tông đổi
thành xứ Nghệ, rồi trấn Nghệ An. Năm 1831, vua Minh Mệnh chia trấn Nghệ An
thành 2 tỉnh: Nghệ An và Hà Tĩnh.
32. HÀ TĨNH
Hà Tĩnh có tên gọi từ năm 1831, khi vua Minh Mệnh chia tách
Nghệ An để đặt tỉnh Hà Tĩnh.
33. THANH HOÁ
Thanh Hóa là tỉnh chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Trung Việt
Nam, là tỉnh có số lần sát nhập và chia tách ít nhất cả nước. Ở thời Nhà Đinh
và Tiền Lê Thanh Hóa gọi là đạo Ái Châu. Ở thời Nhà Lý thời kỳ đầu gọi là trại
Ái Châu, vào năm Thuận Thiên 1 tức năm 1009 gọi là Phủ Thanh Hóa. Năm 1469 lại
đổi thành Thừa Tuyên Thanh Hoa, tên Thanh Hoa có từ đây. Năm 1802 đổi gọi là trấn
Thanh Hóa, có thể do tên cũ trùng với tên một phi tần của vua. Năm 1831 đổi trấn
thành tỉnh, bắt đầu gọi là tỉnh Thanh Hoa (Hoa: tinh hoa). Đến năm 1841 lại đổi
thành tỉnh Thanh Hóa cho tới ngày nay.
34. QUẢNG NGÃI
Quảng Ngãi có thể là tên gọi mang ý nghĩa dải đất tình nghĩa.
Năm 1602 Trấn Quảng Nam đổi thành dinh Quảng Nam, phủ Tư Nghĩa thuộc dinh Quảng
Nam đổi thành phủ Quảng Nghĩa. Năm 1807, xã Cù Mông (sau là Chánh Mông rồi
Chánh Lộ) được chọn làm nơi xây dựng tỉnh Quảng Nghĩa, năm 1832 tỉnh Quảng
Nghĩa tức Ngãi được thành lập.
35. BÌNH ĐỊNH
Bình Định là tên do vua Nguyễn Ánh đặt năm 1799 sau khi hạ được
thành Quy Nhơn, Nguyễn Ánh bèn cho đổi tên Bình Định, dụng ý thể hiện tư thế của
người chiến thắng, có thể Nguyễn Ánh cho rằng mình đã vào tận đất phát tích của
nhà Tây Sơn, bình định được “loạn đảng nguỵ Tây” theo cách nói của các vua triều
Nguyễn trước đây.
36. PHÚ YÊN
Phú Yên thuộc quyền quản lý của Chăm Pa với tên gọi Ayaru cho
đến năm 1471, vua Lê Thánh Tông thân chinh cầm quân đánh Chăm Pa đến tận đèo Cả,
sau đó cho sát nhập vùng đất từ đèo Hải Vân tới đèo Cù Mông (phía bắc Phú Yên)
vào lãnh thổ Đại Việt, từ đó vùng đất Ayaru là nơi tranh chấp thường xuyên giữa
người Việt và người Chăm. Năm 1611, Nguyễn Hoàng sai tướng tấn công vào Aryaru,
Chăm Pa thất bại, Nguyễn Hoàng sáp nhập Ayaru vào lãnh thổ Đàng Trong với tên gọi
Phú Yên, với ước nguyện về một miến đất trù phú, thanh bình trong tương lai.
37. KHÁNH HOÀ
Khánh Hòa là tỉnh được thành lập năm 1831 từ trấn Bình Hòa,
còn phủ Bình Hòa khi đó trở thành phủ Ninh Hòa. Khánh Hòa là phần đất cũ của xứ
Kauthara thuộc vương quốc Chăm Pa. Năm 1653, lấy cớ vua Chiêm Thành là Bà Tấm
quấy nhiễu dân Việt ở Phú Yên, Chúa Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ Hùng Lộc
đem quân sang đánh chiếm được vùng đất Phan Rang trở ra đến Phú Yên. Trong tiếng
Hán, chữ “Khánh” thuộc bộ tâm, quy định nét nghĩa liên quan đến tâm trạng, cảm
xúc, tính cách… nghĩa gốc là “mừng” rồi chuyển loại mang nghĩa “chúc mừng” và
“việc mừng, lễ mừng”. Chữ Hòa tạm hiểu là đồng thuận, hòa hợp.
38. NINH THUẬN
Ninh Thuận là tên gọi xuất hiện đầu tiên với tư cách là phủ
Ninh Thuận vào năm 1832 thời vua Minh Mạng, kéo dài đến năm 1888. Sau đó lập tỉnh
Phan Rang, cũng gọi là tỉnh Ninh Thuận, từ 1945 tách nhập nhiều lần, đến nay được
gọi lại tên cũ Ninh Thuận.
39. BÌNH THUẬN
Bình Thuận là tên gọi có từ năm 1697, khi chúa Nguyễn cho lập
Bình Thuận Phủ gồm 2 huyện An Phước và Hòa Đa. Bình chỉ sự khai phá, bình định một
vùng đất, Thuận là sự sinh sống hòa thuận mà ở đây là giữa 2 dân tộc Chămpa và
Kinh, do lúc này vùng đất này chưa yên ổn nên chúa Nguyễn đặt tên như vậy. Năm
1827, thời vua Minh Mạng, Bình Thuận được đặt thành tỉnh.
40. SÀI GÒN
Thành phố Hồ Chí Minh vẫn được gọi phổ biến với tên cũ là Sài
Gòn. Có nhiều thuyết về tên gọi Sài Gòn, nhưng thuyết được cho là đúng và hợp
lí nhất đó là Brai Nagara là nguồn gốc. Bởi vì thế kỷ 18 vùng Gia Định xưa có
hai địa danh Rai-gon thong (Sài Gòn thượng) và Rai-gon ha ( Sài Gòn hạ). Mà nguồn
gốc của Rai gon là Brai Nagara hay Prey Nokor. Hơn nữa, địa danh này không có ý
nghĩa trong tiếng Việt nên khả năng phiên âm từ tiếng dân tộc khác là có cơ sở.
41. ĐỒNG NAI
Đồng Nai có nguồn gốc tên gọi vẫn chưa rõ ràng. Dân gian quen
giải thích do cánh đồng có nhiều nai. Cũng có ý kiến cho rằng Đồng trong Đồng
Nai là cách gọi biến âm từ chữ Đờng trong Đạ Đờng (Sông Cái) của người Mạ; bởi
vì còn có rất nhiều tên gọi khác bắt nguồn từ chữ Đồng (Đờng?) mà không phải là
cánh Đồng: Đồng Tranh, Đồng Môn, Đồng Tràm, Đồng Trường… Vào thế kỷ 17, Đồng
Nai hay vùng đất Đồng Nai là ám chỉ cả một vùng Nam Bộ rộng lớn của bây giờ.
42. BÌNH DƯƠNG
Bình Dương trong Địa chí Sài Gòn – Gia Định xưa cho rằng được
lấy tên từ địa danh thời Trung cổ Trung Quốc, tên đất khởi nghiệp của vua
Nghiêu. Khi làm vua, Nghiêu chỉ ở nhà tranh, vách đất, ăn mặc như thứ dân, ngày
cày ruộng cùng dân, đêm đọc sách Thánh hiền, suốt thời gian vua cai trị dân
chúng thái bình, thịnh trị, không trộm cắp, trên dưới hòa thuận an lành. Bình
Dương nay là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một xưa. Về tên gọi Thủ Dầu Một, nhiều
người cho rằng có nguồn gốc từ tiếng Campuchia, nhưng phần đông tác giả khác đều
nghĩ Thủ Dầu Một là một cụm từ tiếng Việt được hình thành từ sự kết hợp giữa
hai thành tố Thủ (giữ) Dầu Một (tên đất), vì theo truyền khẩu thì đồn binh canh
giữ tại Bình An nằm trên ngọn đồi có cây dầu lớn gọi là “cây dầu một” nên tên gọi
Thủ Dầu Một ra đời.
43. BÌNH PHƯỚC
Bình Phước có tên gọi từ ngày 30/1/1971, khi Trung ương Cục
miền Nam ra nghị quyết sáp nhập 2 tỉnh Bình Long, Phước Long thành một đơn vị
trực thuộc Trung ương Cục.
44. BÀ RỊA VŨNG TÀU
Bà Rịa - Vũng Tàu là địa danh ghép bởi Bà Rịa và Vũng Tàu. Địa
danh Bà Rịa là phiên âm tên nữ thần trấn sóng Chăm Po Riyak, cũng có thể được cấu
tạo theo phương thức chuyển hóa từ nhân danh Nguyễn Thị Rịa người Phú Yên, năm
15 tuổi cùng đoàn lưu dân từ Dinh Trấn Biên vào nam, có công lớn trong việc
khai khẩn vùng rừng núi Đồng Xoài.
Vũng Tàu được thành lập năm 1895, tuy nhiên trong bộ Phủ biên
tạp lục năm 1776 của Lê Quý Đôn đã nhắc đến chữ Vũng Tàu: “Đầu địa giới Gia Định
là xứ Vũng Tàu, nơi hải đảo có dân cư”, đó chính là ba làng Thắng Nhất, Thắng
Nhị, Thắng Tam được chúa Nguyễn Phúc Tần lập năm 1658, vùng đất này có ba mặt
giáp biển, rất thuận lợi cho tàu bè đậu tránh gió trước khi vào Gia Định, nên về
sau gọi là Vũng Tàu.
45. TÂY NINH
Tây Ninh từ thời xưa vốn là một vùng đất thuộc Thủy Chân Lạp,
với tên gọi là Romdum Ray, có nghĩa là “Chuồng Voi” vì nơi đây chỉ có rừng rậm
với muôn thú dữ như cọp, voi, beo, rắn,… cư ngụ. Tên gọi Tây Ninh có nghĩa là
yên ổn về chính trị ở phía tây.
46. DAK NÔNG
Đắk Nông đặt theo tiếng M’Nông có nghĩa là Nước (hoặc đất) của
người M’Nông. Đắk Nông nằm ở cửa ngõ phía tây nam của Tây Nguyên, phía bắc và
đông bắc giáp với địa phận tỉnh Đắk Lắk, phía đông và đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng,
phía nam giáp tỉnh Bình Phước, phía tây với Vương quốc Campuchia.
47. DAK LAK
Đắk Lắk có tên gọi đặt theo tiếng M’Nông nghĩa là “hồ Lắk”, với
dak nghĩa là “nước” hay “hồ”. Đắk Lắk được xem là một trong những cái nôi nuôi
dưỡng không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là Kiệt
tác truyền khẩu và phi vật nhân loại thế giới công nhận.
48. GIA LAI
Gia Lai nguồn gốc tên gọi bắt nguồn từ chữ Jarai, tên gọi của
một tộc người bản địa có số dân đông nhất trong tỉnh, cách gọi này vẫn còn giữ
trong tiếng của người Eđê, Bana, Lào, Thái Lan và Campuchia để gọi vùng đất này
là Jarai, Charay,Ya-Ray có nghĩa là vùng đất của người Jarai, có thể là ám chỉ
vùng đất của Thủy Xá và Hỏa Xá thuộc tiểu quốc Jarai xưa.
49. KONTUM
Kon Tum, theo ngôn ngữ Ba Na thì Kon là làng, Tum là hồ, chỉ
tên gọi một ngôi làng gần một hồ nước cạnh dòng sông Đăk Bla mà hiện nay là làng
Kon Kơ Nâm ở thành phố Kon Tum.
50. LÂM ĐỒNG
Lâm Đồng được thành lập từ việc sáp nhập tỉnh Lâm Viên với tỉnh
Đồng Nai Thượng.
51. LONG AN
Long An là địa danh được hiểu theo nghĩa: An là yên ổn, an
toàn. Long là đầy đủ, hưng thịnh, lớn, tốt đẹp.
52. TIỀN GIANG
Tiền Giang là địa danh được đặt theo tên sông Tiền, là vùng đất
được người Việt trong đó phần lớn là từ vùng Ngũ Quảng đến khai hoang và định
cư từ thế kỷ XVII. Sau nhiều lần thay đổi tên, thay đổi vùng địa lý, đến năm
1976 mới có tên chính thức là tỉnh Tiền Giang trên cơ sở hợp nhất tỉnh Mỹ Tho,
tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho.
Vào thế kỷ 17 Mỹ Tho đã trở thành một trong hai trung tâm
thương mại lớn nhất Nam Bộ lúc bấy giờ cùng với Gia Định - Sài Gòn.
53. VĨNH LONG
Vĩnh Long âm Hán Việt có nhiều nghĩa, có thể ngụ ý: “sự thịnh
vượng (long) bền lâu, mãi mãi (vĩnh)”. Tên Vĩnh Long, một thời được gọi Vãng
Long nhưng “vãng” khó lý giải mối quan hệ ngữ nghĩa, vì nghĩa của“vãng” là “đi, đã qua, thường” không phù hợp với nghĩa của
“vĩnh”, như trong từ ghép “vĩnh long”. Có thể lý giải con đường chuyển đổi ngữ
âm cho dễ phát âm hơn, nhiều từ cũng chuyển từ inh sang ang như vậy.
54. CẦN THƠ
Cần Thơ là địa danh khi đối chiếu với tên Khmer nguyên thủy của
vùng này là Prek Rusey (sông tre) không có liên quan gì về ngữ âm, nhưng trước
đây có một con rạch mang tên một loài cá có tên Khmer là kìntho (cá sặt rằn), về
sau biến âm thành Cần Thơ. Bản thân tỉnh Cần Thơ đã được thành lập vào từ
1/1/1900 dưới thời Pháp thuộc, sau đó theo được tách nhập và xê dịch về địa lý
nhiều lần.
55. ĐỒNG THÁP
Đồng Tháp có tên gọi từ Đồng Tháp Mười, tư liệu thành văn viết
“đồng Tháp Mười” (không viết hoa chữ “đồng”), có nghĩa “tháp thứ 10” hoặc “tháp
10 tầng”, thậm chí có nhiều cách giải thích về 2 ý nghĩa trên theo nhiều giả
thuyết khác nhau. Nhiều người cho rằng địa danh Tháp mười được hình thành và
chuyển hóa như sau: tháp Mười -> gò Tháp Mười (gọi tắt Gò Tháp) -> đồng
Tháp Mười -> vùng Đồng Tháp Mười -> Tháp Mười + Đồng Tháp.
56. BẾN TRE
Bến Tre ngày xưa, theo cuốn “Monographie De La Province De Bến
Tre” của tác giả Ménard in năm 1903, người Khơme gọi là Xứ Tre vì các giồng xứ
này tre mọc rất nhiều, sau đó người dân lập chợ buôn bán và gọi là chợ Bến Tre,
gọi tắt của bến xứ tre.
57. AN GIANG
An Giang xưa là đất Tầm Phong Long, về sau nước Chân Lạp dâng
cho chúa Nguyễn, vua Gia Long tổ chức mộ dân đến khai hoang, đưa dân vào định
cư trở thành một trong Nam Kỳ lục tỉnh thời nhà Nguyễn độc lập. Tên gọi An
Giang nghĩa là dòng sông an lành có thể định cư lâu dài, ý nghĩa cho việc khuyến
khích di dân khẩn hoang lập làng.
58. KIÊN GIANG
Kiên Giang là tỉnh được thành lập năm 1975, phần lớn là vùng
đất thuộc trấn Hà Tiên cũ do Mạc Cửu khai phá vào thế kỷ XVII. Địa danh Kiên
Giang có thể bắt nguồn từ tên một con sông ở Rạch Giá, đó là sông Kiên.
59. HẬU GIANG
Hậu Giang là địa danh có tên gọi bắt nguồn từ tên sông Hậu.
Năm 1976 cũng từng có một tỉnh Hậu Giang thuộc miền Tây Nam Bộ, bị giải thể năm
1991 do bị chia thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng, sau đó năm 2004 tỉnh Cần
Thơ được chia thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang
hiện nay.
60. BẠC LIÊU
Bạc Liêu được phát âm theo tiếng Hán Việt từ tiếng Triều Châu
là “Pô Léo”, có nghĩa là xóm nghèo, làm nghề hạ bạc (chài lưới, đánh cá, đi biển).
Ý kiến khác lại cho rằng “Pô” là “bót” hay “đồn”, còn “Liêu” có nghĩa là “Lào”
(Ai Lao) theo tiếng Khơme, vì trước khi người Hoa kiều đến sinh sống, nơi đó có
một đồn binh của người Lào. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng tên gọi Bạc Liêu
xuất phát từ tiếng Khmer Po Loenh, nghĩa là cây đa cao.
61. TRÀ VINH
Trà Vinh là một địa danh gốc Khmer tên tiền thân là Tra Vang
có thể là biến âm từ “prha trapenh” có nghĩa là ao, ao Phật hay ao linh thiêng.
Vì cho rằng ngày xưa người ta đã đào được tượng Phật dưới ao ở vùng đất này. Thời
nhà Nguyễn thì Trà Vinh là tên phủ sau thành huyện thuộc phủ Lạc Hóa tỉnh Vĩnh
Long, được lập ra năm 1832.
62. SÓC TRĂNG
Sóc Trăng là biến âm của Sốc Trăng, xuất phát từ tiếng Khmer
“Srock Khléang”. Srock có nghĩa là xứ, Khléang là kho chứa vàng bạc của vua.
Trước kia người Việt viết là Sốc Kha Lăng, sau nữa biến thành Sốc Trăng. Tên Sốc
Trăng đã có những lần bị biến đổi hoàn toàn. Thời Minh Mạng, đã đổi lại là Nguyệt
Giang tỉnh, có nghĩa là sông trăng (sốc thành sông, tiếng Hán Việt là giang;
trăng là nguyệt).
63. CÀ MAU
Cà Mau (cách viết cũ là Cà-mâu) là cái tên được hình thành do
người Khmer gọi tên vùng đất này là “Tưk Kha-mau”, có nghĩa là nước đen, do lá
tràm của thảm rừng tràm U Minh bạt ngàn rụng xuống làm đổi màu nước thành đen.
Cà Mau là xứ đầm lầy ngập nước, có nhiều bụi lác mọc tự nhiên và hoang dã.
Chính vì lẽ đó từ thuở xưa đã có câu ca dao: “Cà Mau là xứ quê mùa / Muỗi bằng
gà mái, cọp tùa bằng trâu”.
-ST-