TUỲ DUYÊN LÀ GÌ?
1. Muôn sự tại duyên
Mọi sự vật trên thế gian và cả vũ
trụ này đều được tạo thành bởi rất nhiều điều kiện. Ngay cả hạt điện tử là đơn
vị cực nhỏ cũng không phải là một thực thể riêng biệt, chúng luôn ở vào tình trạng
liên kết. Chính vì mọi cá thể đều phải nhờ vào vô số điều kiện mới có thể biểu
hiện và tồn tại, nên ta gọi đó là duyên sinh. Nhìn một cơn mưa, ta biết cánh đồng
lúa vừa tiếp nhận thêm duyên là nước và trên bầu trời cũng bớt đi duyên là mây.
Tiến trình đến đi của duyên sinh
vô cùng kỳ bí. Chúng không hề có tướng trạng cố định, hoặc khi chúng ở dạng
không hình tướng. Vì vậy, ta không thể dung con mắt bình thường hay kỹ thuật của
khoa học mà có thể thấy rõ sự vận hành của chúng. Trừ phi, ta có thể vượt thoát
được ý niệm sai lầm về cái tôi riêng biệt và phá vỡ được ranh giới hạn hẹp ấy,
tầm nhìn của ta có thể vượt qua phạm vi thời gian và không gian có thể tính được
thì ta mới thấy rõ tiến trình hoạt động của mọi duyên từ nơi chính mình và vạn
vật xung quanh. Tuy nhiên, mọi duyên đều tuân theo nguyên tắc nhân quả, nên còn
gọi là nhân duyên. Nhân là cái đã xảy ra trước đó. Nghĩa là không bao giờ có
cái duyên hoàn toàn mới lạ, mà luôn có một số duyên nhỏ trong đó đã từng gặp gỡ
và lien kết với nhau rồi. Vì thế, duyên hôm nay cũng chính là nhân của tương
lai.
Người xưa hay nói muốn làm nên việc
gì cũng phải hội đủ ba yếu tố quan trọng: thiên thời, địa lợi và nhân hòa.
Thiên thời là điều kiện thích hợp từ vũ trụ đưa tới. Địa lợi là hoàn cảnh xã hội
phù hợp với việc ta làm. Nhân hòa là sự yểm trợ nhiệt tình của mọi người xung
quanh. Nhưng người xưa còn cho rằng thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi lại
không bằng nhân hòa. Có nhân hòa thì sẽ dễ dàng có được hai yếu tố còn lại, vì
yếu tố nhân hòa nằm ngay trong chính ta, ta có thể chủ động để tạo ra nó. Chỉ cần
ta buông bỏ bớt tâm cao ngạo và đố kỵ, hết lòng kính trọng và nâng đỡ mọi người
xung quanh - tức là sống có phước có đức thì tự nhiên ta sẽ kết nối được với
hai yếu tố kia. Dù ta có tài năng và bản lĩnh đến đâu mà thiếu một trong ba yếu
tố này, đặc biệt là không thu phục được lòng người, thì ta không thể nào thành
công được. Nếu có thì cũng mau chóng sụp đổ. Nên nhớ duyên có hợp có tan, có đến
có đi. Ta đừng tin chắc rằng những gì mình có được hôm này sẽ tồn tại mãi mãi.
Tuy ta không thể hoàn toàn chủ động tạo ra hết mọi nhân duyên cho mình, nhưng
ta có thể tạo ra sự liên kết để nhân duyên duy trì hay tan rã.
Tâm ta cũng là một cơ chế rất kỳ
bí. Mỗi ý niệm tốt sẽ phát sinh ra vô số năng lượng tốt và mỗi ý niệm xấu sẽ
phát sinh vô số năng lượng xấu. Chúng sẽ liên kết trực tiếp với những năng lượng
tốt hay xấu khác đang bang bạc khắp nơi trong vũ trụ, và đến khi gộp đủ nhân
duyên thì cũng sẽ tạo nên những hiệu ứng lớn đến không ngờ. Vì thế, tâm ta
chính là nguồn gốc tạo ra hầu hết nhân duyên thích ứng cho ta. Nhưng nếu không
đủ sức phát huy được ưu thế của tâm để bồi đắp thêm cho nhân duyên mình đang
có, thì ta phải đành chấp nhận để nhân duyên ra đi. Thái độ này chính là tùy
duyên. Ngoài ra, không mong cầu bất cứ nhân duyên nào khác cũng là thái độ tùy
duyên.
Tùy duyên là vui lòng chấp nhận
những gì xảy ra trong hiện tại, tạm ngưng tranh đấu và bình thản chờ đợi nhân
duyên thích hợp hội tụ. Nhiều khi chính thái độ ngưng tranh đấu và bình thản chờ
đợi lại là nhân duyên quan trọng để kết nối với những nhân duyên tốt đẹp khác.
Đừng quên, một việc thành cần phải hội tụ hang triệu nhân duyên, chỉ cần thiếu
một duyên thì nó cũng có thể bất thành. Nếu ta có hiểu biết sâu sắc hay từng trải
nghiệm, thì trong cài trường hợp ta cũng có thể đoán biết được mình nên làm gì
và không nên làm gì, để cho nhân duyên tốt hội tụ đầy đủ trở lại hay nhân duyên
xấu sớm tan biến đi.
Ta thường gọi nhân duyên tốt là
thuận duyên và nhân duyên xấu là nghịch duyên, tức là những điều kiện có lợi và
bất lợi cho ta. Có những duyên thuận với ta nhưng lại nghịch với kẻ khác, và có
những nhân duyên thuận với kẻ khác nhưng lại nghịch với ta. Đó chỉ là nói trong
phạm vi con người, trong khi nhân duyên vốn luôn xảy ra với vạn vật ở khắp nơi
trong vũ trụ. Bản chất của nhân duyên thì không có thuận nghịch, tốt xấu. Nó chỉ
hội tụ hay tan rã theo sự thích ứng giữa các tần số năng lượng phát ra từ mọi
cá thể mà thôi.
Thói quen của hầu hết chúng ta
khi đón nhận thuận duyên thì luôn cảm thấy sung sướng và rất muốn duy trì mãi
nhân duyên ấy. Còn khi gặp phải nghịch duyên thì luôn cảm thấy khó chịu và tìm
cách tránh né hay loại trừ. Nhưng chưa hẳn thuận duyên sẽ đem lại giá trị hạnh
phúc, hay nghịch duyên sẽ mang tới khổ đau thật sự. Nhiều khi nghịch duyên đưa
tới sự trưởng thành, còn thuận duyên lại dễ khiến ta yếu đuối. Có khi thuận
duyên ban đầu nhưng lại biến thành nghịch duyên sau này, hay nghịch duyên bây
giờ nhưng lại là thuận duyên trong tương lai. Tất cả đều tùy thuộc vào bản lĩnh
và thái độ sống của chúng ta. Do đó, ta không cần phải khẩn trương thay đổi những
nhân duyên mà mình không hài lòng, hay cố gắng tìm kiếm những nhân duyên mà
mình yêu thích. Khi tâm ta đã vững chãi đủ để tạo ra những nhân duyên an lành
thì những nhân duyên tương ứng sẽ tự động kết nó mà thôi. Mà thật ra, khi tìm
được sức sống từ nơi chính mình, ta sẽ không còn quan trọng điều kiện bên ngoài
nữa. Nhân duyên nào cũng được cả. Rất tự tại.
2. Tùy duyên phải bất biến
Tùy duyên còn là thái độ biết tận
dụng những nhân duyên mới mẻ đang hội tụ trong hiện tại để giải quyết vấn đề,
hay tạo nên những đột phá tốt đẹp hơn. Nó sẵn sàng bỏ qua những dự tính, kể cả
nhưng khuôn thước đã được đặt để trước đây. Thái độ này chỉ có những kẻ bản
lĩnh và vũng chãi thật sự. Họ phải đảm bảo phẩm chất không những không bị thay
đổi mà còn tuyệt vời hơn trước khi hành động. Điều này khác hẳn với sự bùng vỡ
của cảm xúc - quyết liệt làm cho được như ý rồi mau chóng chán nản và buông
xuôi.
Nhà thiền có một câu chuyện rất
thú vụ. Hai sư Huynh đệ nọ trên đường du phương hóa độ, bỗng thấy một cô gái
đang loay hoay tìm cách đi qua dòng suối chảy xiết. Người sư Huynh liền tiến tới
hỏi: “Này cô! Cô có muốn tôi cõng cô qua bờ bên kia không?”. Cô gái vô cùng mừng
rỡ gật đầu đồng ý. Sau khi qua con suối rồi, hai huynh đệ giã từ cô gái và tiếp
tục cuộc hành trình. Đi được một đỗi đường, người sư đệ không kiềm chế được nữa
bèn bức xúc lên tiếng: “Sao sư huynh lại làm như vậy?”. Người sư huynh ngạc
nhiên hỏi: “Làm chuyện gì?”. “Thì chuyện cõng cô gái hồi nãy đó, chúng ta là
người xuất gia tu hành kia mà!” - người sư đệ hơi cáu gắt. Người sư huynh mỉm
cười, vỗ vai người sư đệ: “Ta đã để cô gái ấy lại bên bờ suối rồi, sao sư đệ
còn mang tới đây!”.
Người sư đệ không giúp cô gái qua
sông thì không có gì sai. Vì trình độ tu tập của người sư đệ còn yếu kém, cần
phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh để tâm hồng không bị khuấy động mà dễ dàng
thiền định. Nhưng cái sai của người sư đệ là nghĩ người sư huynh cũng cùng
trình độ như mình, cũng phải giữ sự thực tập y như mình, nên đã bất mãn với việc
sư huynh giúp đỡ cô gái. Đành rằng sự thanh tịnh tâm hồn là yêu cầu bắt buộc đối
với người đã xuất gia tu hành, nhưng đó không phải là mục đích sau cuối của sự
tu hành. Tu hành đâu phải cốt để bảo vệ giới luật cho thật trong sáng, còn ai
khổ mặc ai. Giới luật mà chỉ bảo vệ cho mỗi sự thanh tịnh thôi thì giới luật ấy
chỉ dành cho những kẻ sống vì bản thân hay còn quá yếu kém. Nó không có giá trị
thích ứng cho những người đã có đủ bản lĩnh bất động trước những xáo động của
hoàn cảnh. Cho nên, ta không thể căn cứ trên vài hiện tượng bên ngoài để thẩm định
mà không suy xét đến động cơ và kết quả. Vấn đề là sau hành động đột phá ấy thì
họ đánh mất chính mình hay nâng cao phẩm chất hơn.
Câu nói “Ta đã để cô gái ấy lại
bên bờ suối rồi, sao sư đệ còn mang tới đây?” đã xác định phần nào trình độ bất
nhiễm của vị sư huynh. Tất nhiên, phải cần có them những kiểm chứng thực tế
khác thì ta mới đủ tin vào khả năng tùy duyên mà không thay đổi phẩm chất của một
người nào đó. Bởi vì có nhiều người rất thích đột phá, nhất là những người trẻ.
Họ luôn muốn dùng hết năng lực để nắm bắt những nhân duyên trong hiện tại để
làm nên kỳ tích, nhưng số người thành công thì rất ít ỏi. Hầu hết gặp thất bại
là do họ đã quá tự tin, đánh giá thấp hoàn cảnh, bị tham vọng chi phối, bị thói
quen thay đổi lập trường kích động, hoặc không biết mình đang chiều theo sự tùy
hứng. Tuy họ cũng tùy duyên nhưng lại…biến mất.
Thay đổi chiến lược bất ngờ, vượt
qua nguyên tắc quan trọng, bất chấp sự cản trở của những người xung quanh,
nhưng cuối cùng không đạt được mục đích mà còn phải trả những cái giá rất đắt
thì đó là vết thương tâm lý rất nặng. Vết thương ấy sẽ khiến ta đánh mất niềm
tin nơi bản thân và trở nên rất dị ứng với những thay đổi sau này. Chính vì hậu
quả khó lương như thế nên người từng trải chỉ thích lối sống bình thường, giữ
theo khuôn thước cho yên ổn. Nhưng cuộc đời đâu phải lúc nào cũng bình thường.
Sẽ có lúc ta buộc phải vượt thoát sự bình thường ấy mới có thể cứu lấy bản thân
hay giúp đỡ được kẻ khác thì ta phải làm sao? Thế nên, trang bị sẵn một khả
năng đủ lớn để ứng phó trước những nghịch cảnh là hành động của những kẻ trải
nghiệm và có hiểu biết sâu sắc. Thiền sư Trần Nhân Tông thời nhà Trần của Việt
Nam đã từng khuyên: “Ở đời vui đạo phải tùy duyên/ Hễ đói thì ăn mệt thì ngủ liền”
(Cư trần lạc đạo thả tùy duyên/ Cơ tắc xan hè khốn tắc miên - Cư trần lạc đạo).
Nghệ thuật giữ gìn sự thanh thản trong tâm hồn ngay giữa bao sự phiền nhiễu của
đời thường chính là thái độ tùy duyên. Theo thiền sư Trần Nhân Tông, tùy duyên
có nghĩa là đói thì ăn mệt thì ngủ. Nhưng ăn ra ăn và ngủ ra ngủ; việc nào ra
việc ấy, không trộn lẫn nhau, không thấy việc nào quan trọng hơn việc nào; việc
nào đến trước thì giải quyết trước, không nôn nóng không bâng khuâng. Mới nghe
qua thật dễ, nhưng làm được thì rất khó. Ta phải thay đổi những thói quen rất
lâu đời như vội vàng, lo lắng và sợ hãi. Ngay cả những kẻ sống trong chốn u
nhàn cũng vẫn còn đầy rẫy những khắc khoải mong cầu thì đừng nói chi ta đang sống
giữa chốn lao xao.
Lẽ dĩ nhiên, không ai bắt buộc ta
phải tùy duyên. Nhưng khả năng tùy duyên của ta càng lớn thì sự thanh thản
trong tâm hồn sẽ càng lớn. Nếu ta vẫn còn tiếp tục đi tìm hạnh phúc ở bên ngoài
thì chắc chắn ta sẽ mãi còn mong muốn và áp đặt nhân duyên thuận theo ý mình.
Chỉ khi nào ta đã tìm thấy giá trị hạnh phúc chân thật nơi chính mình thì ta mới
chấp nhận được mọi hoàn cảnh. Hòa nhập mọi hoàn cảnh để giúp người giúp đời mà
không bị hòa tan, đó chính là mẫu người lý tưởng nhất của xã hội trong mọi thời
đại.