CÔNG NĂNG VÀ OAI LỰC CỦA CHÚ ĐẠI BI
Chú Đại Bi là thần chú quảng đại viên mãn, thần chú vô ngại đại bi, thần
chú cứu khổ. Trì chú này thì diệt vô lượng tội, được vô lượng phước và chết thì
sinh Cực Lạc.
Cửa Phật có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn, một người học Phật dù cố gắng
hành trì, tu tập trải qua hằng hà sa số kiếp cũng không dễ gì có thể lãnh hội hết
tất cả nội dung phong phú đó huống là chỉ một đời người. Cho nên, tùy theo căn
cơ, duyên nghiệp, một khi đã phát tâm đi vào con đường giải thoát, hành giả hoặc
nhờ phước duyên được chư Phật, chư Bồ Tát độ trì dẫn dắt, hoặc do minh sư chỉ bảo,
mỗi người cần nên tự chọn cho mình một pháp môn để tu tập. Có rất nhiều pháp
môn tu học phổ biến trong đại chúng hiện nay như Tịnh Độ, Mật Tông, Thiền Định…
Pháp môn tuy có thể khác nhau, nhưng một khi đã tự xem mình là trưởng
tử của Như Lai, hạnh nguyện của mỗi hành giả đều giống nhau, đó là noi theo ánh
sáng của chư Phật, quyết tâm xé bỏ bức màn vô minh, đạp qua nẻo luân hồi sinh tử
để đi vào con đường giải thoát, tiến đến đạo quả bồ đề, hầu mang lại an vui,
phúc lợi không những cho riêng mình mà còn cho toàn thể chúng sanh.
“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, đó là tâm nguyện chung của một người
mang hạnh nguyện Bồ tát vào đời, dù khoác trên mình chiếc áo tăng sĩ hay hàng tại
gia cư sĩ. Nhưng một người dù có thiện tâm, hảo ý đến bao nhiêu mà không có khả
năng thực hiện được ý nguyện của mình thì thiện tâm hảo ý cũng trở thành vô
ích. Như một người trông thấy kẻ bị nạn sắp chết đuối dưới dòng nước chảy xiết,
nhảy xuống định cứu, thế nhưng bản thân mình lại không biết lội, chẳng những đã
không cứu được người, vừa thiệt thân mạng mình một cách vô ích, lại còn gây trở
ngại thêm cho công tác cứu hộ. Cho nên, muốn độ người trước hết phải độ ta, có
nghĩa là phải xét xem ta có đủ khả năng, tư cách để độ người hay không? Muốn thế
mỗi người phải luôn tích cực, tinh tấn tu tập không ngừng nghỉ mới có thể từng
bước tiến dần đến ánh sáng giác ngộ.
Có thể nói một cách khẳng định rằng, để đạt được cứu cánh giác ngộ
không có con đường tu tập nào khác hơn ngoài con đường Thiền định. Chư Phật,
chư Bồ Tát, chư Tổ cũng đều đã phải trải qua con đường đó. Chính Đức Thế Tôn đã
từng nhấn mạnh đến lợi ích quan trọng của thiền định: “Thiền định là phương tiện
duy nhất để thanh tịnh nội tâm, tiêu trừ phiền não.” (Samyutta, 16:13 – Tạp A
Hàm), và chính Ngài cũng đã trải qua 49 ngày đêm thiền định rốt ráo trước khi
chứng đạt được đạo quả bồ đề. Chúng ta, những người học Phật, dĩ nhiên cũng
không có một lựa chọn nào khác hơn. Tuy nhiên, một vấn nạn lớn đặt ra cho những
người mới tập tễnh bước chân vào cửa Thiền, là làm sao tìm ra cho mình một
phương pháp thích ứng để con đường tu chứng của mình mau đạt được kết quả mà
không bị lạc lối trong rừng Thiền mênh mông, chẳng những đã không đạt được cứu
cánh giác ngộ mà đôi khi lại còn có thể bị rơi vào con đường ma đạo.
Muốn học đạo phải tìm thầy. Có rất nhiều minh sư ở khắp mọi nơi để Phật
tử có thể tìm đến tham cầu, nhưng nếu vì một lý do nào đó mà hành giả không có
cơ duyên hay phương tiện để gặp gỡ họ, hôm nay chúng tôi sẽ xin giúp hướng dẫn
qúy vị đến gặp một vị Đại minh sư, một “Người” rất quen, luôn luôn gần gũi bên
cạnh chúng ta, luôn luôn lắng nghe những lời khẩn cầu của chúng ta với tất cả sự
quan tâm và tấm lòng thương yêu rộng lớn để sẵn sàng giúp đỡ mà không cần đòi hỏi
một điều kiện thù đáp nào. Vị minh sư đó không ai khác hơn là Đức Bồ Tát Quán
Thế Âm và với phương tiện thiện xảo của Ngài, thần chú “Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô
Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni”, sẽ giúp đỡ cho bất cứ ai khi trì tụng Thần chú này
đúng phương pháp chắc chắn sẽ mau chóng bước chân vào cõi Thiền, cũng như đạt
được mọi điều sở nguyện.
Như người cùng tử, suốt một đời rong ruổi ngược xuôi, đến khi mang chiếc
thân tàn trở về lại ngôi nhà cũ của Cha mình mới khám phá ra viên ngọc vô giá
trong chiếc áo rách nát tả tơi theo năm tháng mà ngày xưa người cha vì lòng yêu
thương đã khâu vào trước khi đứa con bỏ nhà đi hoang. Thần chú Đại Bi, chính là
viên ngọc vô giá đó và hôm nay, như người cùng tử năm xưa, chúng ta bất ngờ
khám phá lại kho tàng không những sẽ làm giàu có, phong phú cho tâm hồn đang
khô kiệt của chúng ta, mà còn là chiếc chìa khóa mở cho ta vào cánh cửa thênh
thang của đạo quả giác ngộ, vô thượng bồ đề.
1. Lý Do Ra Đời Của Thần Chú và Phát Nguyện Của Bồ Tát Quán Thế Âm
Thần Chú Đại Bi được rút ra từ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ
Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, do chính Đức Phật Thích Ca
diễn nói trong một pháp hội trước mặt đông đủ các vị Bồ Tát, Thinh văn, Thánh
chúng, Trời, Thần, Thiên, Long, các Đại thánh tăng như Ma-Ha Ca-Diếp, A-Nan…
cùng câu hội, tại núi Bồ Đà Lạc Ca (Potalaka), một hải đảo ở về phía Nam xứ Ấn
Độ, được coi như là nơi mà Đức Bồ Tát Quán Thế Âm thường trụ tích. Ta có thể
tin chắc điều đó bởi vì Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn được mở đầu bằng câu nói quen
thuộc của Ngài A Nan “Như thế tôi nghe” cũng như xuyên qua nội dung hỏi đáp giữa
ngài A Nan và Đức Thế Tôn đã được ghi lại ở trong kinh.
Trong pháp hội này, Bồ Tát Quán Thế Âm vì tâm đại bi đối với chúng
sanh, muốn cho “chúng sanh được an vui, được trừ tất cả các bệnh, được sống
lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn,
được tăng trưởng công đức của pháp lành, được thành tựu tất cả các thiện căn,
được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu” mà
nói ra Thần Chú này.
Ngài cho biết lý do ra đời của Thần Chú như sau: Vào vô lượng ức kiếp
về trước, Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai, vì tâm thương tưởng đến
chúng sanh nên đã nói ra thần chú Đại Bi và khuyến khích Bồ Tát Quán Thế Âm nên
thọ trì tâm chú này để mang đến lợi ích an vui lớn cho chúng sanh trong đời vị
lai. Bồ Tát Quán Thế Âm lúc bấy giờ mới ở ngôi sơ địa khi nghe xong thần chú
này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Vui mừng trước oai lực của thần chú, Ngài
bèn phát đại nguyện: “Nếu trong đời vị lai, con có thể làm lợi ích an vui cho tất
cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân con liền sanh ra ngàn mắt
ngàn tay”. Lập tức, Ngài thành tựu ý nguyện. Từ đó, hình ảnh của vị Bồ Tát Quán
Thế Âm ngàn tay ngàn mắt trở thành một biểu tượng cho khả năng siêu tuyệt của một
vị Bồ Tát mang sứ mệnh vào đời cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sanh. Ngàn tay,
ngàn mắt nói lên cái khả năng biến hóa tự tại, cái dụng tướng vô biên của thần
lực Từ bi và Trí huệ tỏa khắp của Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngàn mắt để có thể chiếu
soi vào tất cả mọi cảnh giới khổ đau của nhân loại và ngàn tay để cứu vớt, nâng
đỡ, như Đức Phật giải thích với Ngài A Nan ở trong kinh, “tiêu biểu cho hạnh
tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh”.
Kinh và Thần chú Đại Bi sau đó đã được ngài Dà-Phạm-Đạt-Ma
(Bhagavaddharma: có nghĩa là Tôn Pháp) một Thiền sư Ấn Độ, du hóa qua Trung Quốc
vào niên hiệu Khai Nguyên đời nhà Đường dịch và chuyển âm từ tiếng Phạn qua tiếng
Trung Hoa và được Hoà Thượng Thích Thiền Tâm chuyển ngữ qua tiếng Việt. Với oai
lực và linh nghiệm đã được chứng minh qua không gian và thời gian, thần chú Đại
Bi đã được trân trọng trì tụng trong các khoá lễ, các nghi thức tụng niệm chính
của các quốc gia theo truyền thống Phật giáo Đại thừa như: Trung Hoa, Nhật Bản,
Triều Tiên, Việt Nam…
2. Công Năng và Oai Lực của Thần Chú Đại Bi
Muốn biết công năng, oai lực của Thần Chú Đại Bi, ta nên tìm hiểu xem
mục đích, hạnh nguyện của Bồ Tát Quan Thế Âm khi Ngài ban phát thần chú này. Bồ
Tát Quán Thế Âm đã phát nguyện rằng: Nếu chúng sanh nào tụng trì thần chú Đại
Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác, không được sanh về các cõi Phật, không được
vô lượng tam muội biện tài, Ngài thề sẽ không thành chánh giác. Ngài còn nhấn mạnh:
Nếu trì tụng thần chú Đại Bi, mà tất cả những mong cầu trong đời hiện tại nếu
không được vừa ý, thì thần chú này sẽ không được gọi là Đại Bi Tâm Đà Ra Ni,
ngoại trừ những kẻ mong cầu những điều bất thiện hoặc tâm không được chí thành.
Hơn thế nữa, Bồ Tát còn cho ta biết ngay cả đối với những kẻ phạm những tội ác
nghiệp nặng nề như thập ác ngũ nghịch, báng pháp, báng người, phá giới, phạm
trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh nếu trì tụng thần
chú Đại Bi thảy đều được tiêu trừ. Vì sao thế? Kinh Đại Bi cho biết mỗi lần
hành giả trì tụng thần chú này, tất cả mười phương chư Phật đều đến chứng minh,
cho nên tất cả các tội chướng nhờ ân đức của chư Phật độ trì, thảy đều tiêu diệt.
Oai lực lớn lao của Thần Chú đã được chính Đức Thế Tôn giảng rõ trong
Kinh Đại Bi Tâm Đà-Ra-Ni:
“Ngài A Nan bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là chi? Con nên thọ trì như thế nào?
Đức Phật bảo: Thần chú này có những tên gọi như sau:
Quảng Đại Viên Mãn Đà-Ra-Ni
Vô Ngại Đại Bi Đà-Ra-Ni
Cứu Khổ Đà-Ra-Ni
Diên-Thọ Đà-Ra-Ni
Diệt-Ác-Thú Đà-Ra-Ni
Phá Ác-Nghiệp-Chướng Đà-Ra-Ni
Mãn-Nguyện Đà-Ra-Ni
Tuỳ-Tâm Tự-Tại Đà-Ra-Ni
Tốc Siêu Thượng Địa Đà-Ra-Ni.”
Từ lời dạy trên của Đức Phật với ngài ANan, chúng ta hiểu được những
công năng chính của thần chú:
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc
chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần
chú là rộng khắp, vô biên, không có gì có khả năng ngăn ngại nỗi. Trong cõi dục
giới này, con người đâu có mong cầu điều gì hơn ngoài an lạc, hạnh phúc và sống
lâu. Thần chú Đại Bi sẽ giúp mọi người đạt được những ước muốn này như Bồ Tát
Quán Thế Âm đã khả hứa.
Một công năng khác của Thần chú là cứu khổ. Những lúc ta lâm cảnh hoạn
nạn, đau thương, cùng khổ, tuyệt vọng, bi đát nhất; những lúc mà ta thấy mình
rơi vào con đường cùng, bế tắc, không còn lối thoát; hãy vững niềm tin vào Đức
Bồ Tát Quán Thế Âm, nhất tâm trì tụng Thần chú Đại Bi, chắc chắn Ngài sẽ giúp
ta những phương tiện thiện xảo, đưa ta vượt qua cảnh khổ đến nơi an lạc, hạnh
phúc.
Tuy nhiên, để Thần chú phát huy được oai lực của nó, khi trì tụng ta
phải tự mình quán chiếu tại sao ta lại rơi vào cảnh khổ mà người khác lại
không, và tại sao Thần chú lại có công năng cứu khổ? Giáo lý của nhà Phật cho
chúng ta biết rằng tất cả mọi việc trên cõi đời này không có gì xảy ra một cách
ngẫu nhiên. Tất cả những đau thương bất hạnh mà ta phải gánh chịu trong kiếp sống
hiện tại: gông cùm tù tội, bệnh hoạn, nghèo hèn,… là kết quả của những ác nghiệp
mà ta đã gây nên từ bao kiếp trước hoặc trong kiếp này, nay đến lúc ta phải trả.
Sở dĩ Thần chú Đại Bi có khả năng đưa ta vượt qua khỏi cơn khổ nạn vì công năng
siêu tuyệt của nó là Phá Ác Nghiệp Chướng như đã nói ở trên.
Thần chú này còn có tên gọi là Diệt Ác Thú. Nghe đến công năng này, một
người sẵn mang tâm từ bi tất sẽ không khỏi sinh lòng nghi ngại. Ta đang trì tụng
Thần chú Đại Bi vì phát khởi tâm Đại Từ Bi, nghĩa là yêu thương muôn loài không
phân biệt thì tại sao lại phải Diệt Ác Thú trong khi ác thú cũng là một loại
chúng sanh cần được thương yêu, cứu vớt?
Tuy nhiên, muốn hiểu rõ công năng này, trước tiên ta hãy tự đặt mình
vào hoàn cảnh sống của những cư dân ở những chốn rừng thẳm, non cao, đặc biệt
là những quốc gia thuộc vùng nhiệt đới như Ấn Độ, nơi đầy dẫy những ác thú như
hùm, beo, rắn rết… luôn luôn là một mối đe dọa lớn cho sinh mạng con người.
Không phải từ thời Đức Phật còn tại thế mà ngay cả đến bây giờ, hàng năm đã có
một số lượng lớn người bị mất mạng vì ác thú, vì thế để cho ác thú khỏi xâm phạm
ta, Bồ Tát đã cho ta thần chú Đại Bi, không có nghĩa là mỗi khi gặp chúng, hành
giả đọc thần chú này lên thì tất cả ác thú đều ngả lăn ra chết, mà phải nên hiểu
rằng, đối với một người hành trì thần chú Đại Bi hằng ngày một cách nghiêm túc,
bên cạnh oai lực che chở hộ trì của chư thần, long, thiên, hộ pháp, ở người trì
chú cũng tự động phát ra một nguồn năng lực mà không phải chỉ riêng đối với ác
thú, ngay cả các loài độc trùng khác cũng đều phải lánh xa.
Tuy nhiên, đối với người quyết chí dấn bước trên con đường tu học, hai
công năng quan trọng nhất của Thần chú Đại Bi là tùy tâm tự tại và tốc siêu thượng
địa. Ta đang gặp khó khăn trong Thiền định, tâm ta loạn động không an trụ, thần
trí ta hoang mang hoảng hốt không thể nào tập trung được vào việc hành thiền, từ
trước đến nay ta đã tìm thử đủ mọi phương pháp mà vẫn không kết quả, thì nay Thần
chú Đại Bi sẽ là một phương tiện hiệu quả giúp ta an tâm, giải phóng tâm thức
ta ra khỏi những vọng động, âu lo của cuộc sống thường nhật, chắc chắn đưa ta
bước vào cảnh giới thiền một cách mau chóng và rốt ráo, rồi từ đó Thần chú sẽ
giúp ta thăng tiến mau chóng vào những nấc thang thiền kế tiếp, vấn đề nhanh
hay chậm là do duyên nghiệp của mỗi cá nhân, tuy nhiên kết quả là chắc chắn, vì
trong Kinh Bồ Tát Quán Thế Âm đã từng cho chúng ta biết rằng Ngài chỉ mới nghe
qua Thần chú này một lần, đã nhanh chóng chứng quả từ ngôi sơ địa lên ngôi bát
địa.
Vì những lý do trên mà thần chú này có tên gọi là Quảng-Đại Viên-Mãn
Vô-Ngại Đại-Bi-Tâm Đà-Ra-Ni. Bởi vậy, Phật tử không nên khinh xuất khi trì tụng
chú Đại Bi mà phải tinh tấn và chí thành, cung kính, giữ đúng lễ nghi. Tin tưởng
vào lòng thương yêu chúng sanh và khả năng hộ trì của Bồ Tát Quán Thế Âm, hành
giả có thể hành trì Thần chú Đại Bi như là phương tiện chính của Thiền định
trong khả năng tập trung năng lực cũng như thiền quán hầu đạt đến an lạc hạnh
phúc trong cuộc sống thường ngày và từng bước tiến đến cứu cánh giải thoát,
giác ngộ.
3. Hình Trạng, Tướng Mạo của Đại Bi Thần Chú (Mười Đặc Tính của Đại
Bi Tâm)
Ta đang trì tụng Đại Bi Thần Chú. Vậy trước tiên ta cũng nên biết Chú
là gì? Đại Bi Thần Chú liên hệ như thế nào đến Mật Tông?
Chú còn được biết dưới những tên gọi khác là Thần Chú, Chân Ngôn hay Mật
ngôn, tiếng Phạn là Đà La Ni (Dhàrani), tức là những câu nói bí mật của chư Phật,
chư Bồ Tát. Những mật ngôn này đối với phái Mật Tông được sử dụng như là những
mật mã để chuyển âm những lời cầu nguyện của người hành trì đến với chư Phật,
chư Bồ Tát trong khắp mười phương và được các ngài mau chóng cảm nhận để giúp đỡ
hộ trì.
Đà La Ni được dịch qua tiếng Trung Hoa có nghĩa là Tổng Trì, tức là một
loại thần lực có năng lực thâu nhiếp cùng bảo trì tất cả các pháp thế gian và
xuất thế gian không cho các thiện pháp bị tán loạn và ngăn che các ác pháp
không cho phát sanh.
Tuy thần chú là những lời nói nhiệm mầu, bí mật của chư Phật, chư Bồ
Tát ta khó thể lãnh hội được nội dung, ý nghĩa nhưng điều này không có nghĩa là
khi trì tụng Thần chú Đại Bi ta chỉ đọc tụng lên một cách máy móc. Một khi đã
biết được công năng và oai lực của Thần chú Đại Bi sẽ giúp ta hiểu được tướng mạo
của Thần Chú Đại Bi, hay nói một cách rõ ràng hơn, đặc tính của Đại Bi Tâm. Những
đặc tính này đã được Bồ Tát Quán Thế Âm giải thích rõ ở trong kinh khi đáp lại
lời thỉnh cầu của vua trời Đại Phạm Thiên Vương, đó là:
Tâm Đại Từ Bi
Tâm Bình Đẳng
Tâm Vô Vi
Tâm Chẳng Nhiễm Trước
Tâm Không Quán
Tâm Cung Kính
Tâm Khiêm Nhường
Tâm không Tạp Loạn
Tâm Không Chấp Giữ
Tâm Vô Thượng Bồ Đề
Tâm là đối tượng của Thiền định. An tâm hay định tâm là mục tiêu của
hành giả khi hành Thiền. Trong những giai thoại liên quan đến Thiền học chắc chắn
ta đã từng được nghe hơn một lần những mẫu chuyện liên quan đến đề tài này. Câu
chuyện “an tâm” giữa Bồ Đề Đạt Ma và Tổ Huệ Khả là một thí dụ nổi tiếng.
Hành giả tu tập thiền định có thể nương vào thần lực của Thần Chú Đại
Bi, như là một phương tiện để định tâm và do khả năng chuyên chở mầu nhiệm của
những âm thanh vi diệu này, hoà nhập vào bản thể của chân tâm, đạt đến cứu cánh
giải thoát, niết bàn. Chân tâm là Phật tánh, vốn thường hằng, hiện hữu trong mỗi
chúng sanh. Ta không thấy được chân tâm của mình vì vô minh, vì tội ác, nghiệp
chướng như rong rêu tích tụ từ hằng hà sa số kiếp đang bao phủ nó. Bồ Tát Quán
Thế Âm hằng thương yêu lo lắng cho chúng sanh đã giúp ta phương tiện diệu dụng
là Thần chú Đại Bi, như chỉ cho ta một con đường tắt để hành trì tu tập, mau
chóng tiến đến niết bàn. Trì tụng Thần chú Đại Bi chắc chắn sẽ làm vỡ ra những
mảng tội ác, nghiệp chướng đã đeo đẳng, dính cứng vào thân ta từ bao đời, oai lực
của nó sẽ như ngọn đuốc bùng lên giữa đêm dài vô minh tăm tối, làm bừng sáng, tỏ
ngộ chân tâm. Mỗi tướng mạo của Thần Chú Đại Bi vì thế có thể là một đề mục lớn
về Thiền quán cho hành giả suy gẫm trong khi hành thiền đồng thời là một mục
tiêu để vươn tới trong hành trì tu tập.
Xuyên suốt và bao trùm lên tất cả là Tâm Đại Từ Bi, tức là tâm thương
xót và ý hướng, quyết tâm cứu khổ. Khởi tụng thần chú Đại Bi cũng có nghĩa là
khởi phát lòng thương xót đến tất cả chúng sanh. Trong cuộc sống đấu tranh đầy
khắc nghiệt để sống còn, khi “con người là chó sói của người”, bất hạnh của kẻ
khác đôi khi mang lại lợi lạc cho chính ta, lòng từ của con người đã bị thui chột.
Nhưng nếu quả thật nhân loại cần tình thương như một chất liệu để nuôi dưỡng đời
sống và để thăng hoa, Thần Chú Đại Bi chắc chắn sẽ là dòng nước cam lồ tưới lên
cành cây khô thui chột, và từ đó hạt giống từ bi sẽ nẩy mầm trong mỗi chúng ta.
Mối liên hệ giữa Từ Bi và Trí Tuệ là một mối liên hệ duyên khởi. Thành
tựu Tâm Đại Bi là điều kiện để phát sinh Trí Tuệ Bát Nhã, và Tâm Bình Đẳng tức
Tâm “Vô phân biệt trí”cũng từ đó phát sinh. Tâm bình đẳng tức là tâm không phân
biệt trong nhận thức và đối xử đối với chúng sanh. Không còn thân, không còn
sơ, không còn màu da, chủng tộc, phái tính, không còn nghèo giàu sang hèn,
không còn loài này và loài khác, chư thiên, trời, người, súc sanh, ngạ quỹ… tất
cả đều bình đẳng, đều là đối tượng được thương yêu và cứu trợ khi cần thiết, bởi
vì tất cả đều mang Phật tánh, đều là những vị Phật tương lai. Với Tâm Bình đẳng
phát triển, mỗi hành giả sẽ là một hiện thân của Bồ Tát Thường Bất Khinh với đầy
đủ tâm cung kính, tâm khiêm nhường trong cung cách sống và cư xử với mọi loại
chúng sanh.
Có thể xem Tâm Đại Từ Bi, Tâm Bình Đẳng là hành trang cần thiết để đi
vào Tâm Không quán. Thực hiện Tâm không quán tức là bước đầu đi vào triết học
tánh Không của đạo Phật, là bắt đầu bước vào cửa ngỏ “Vô Môn Quan”, thấy được
chân như, tự tánh. Có thể coi Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là một diễn giải đầy
đủ ý nghĩa của Tâm không quán: “Quán Tự Tại Bồ Tát -một tên gọi khác của Bồ Tát
Quán Thế Âm- hành thâm Bát Nhã, thường chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất
thiết khổ ách”: Bồ Tát Quán Thế Âm khi chứng được Trí Tuệ thâm sâu, Ngài thấy
vũ trụ muôn sanh kết hợp trên dòng sông năm uẩn. Các pháp đều do nhân duyên sanh,
không có tự tánh, không có sanh diệt, không có thêm bớt, không có tạo tác. Nhờ
vậy Đức Quán Thế Âm thoát ra khỏi mọi khổ đau, ách nạn.
Tâm Không quán vì thế cũng bao gồm cả Tâm không nhiễm trước, Tâm không
tạp loạn, Tâm không chấp giữ, tức là thực chứng Trí Tuệ Bát Nhã để từ đây hành
giả sẵn sàng tiến thêm một bước cuối cùng đạt đến Tâm Vô Vi, Tâm Vô thượng bồ đề,
tức cứu cánh giác ngộ, giải thoát.
Một cách tóm tắt, khi thấy được tướng mạo của Thần chú Đại Bi, mỗi khi
trì tụng thần chú này hành giả phải phát tâm bồ đề rộng lớn, thề độ tất cả muôn
loài, đối với chúng sanh phải khởi lòng bình đẳng và phải thường nên trì tụng
chớ nên gián đoạn. Thần Chú Đại Bi chắc chắn sẽ là phương tiện diệu dụng giúp
hành giả mau chóng đạt đến kết qủa trong Thiền định.
4. Vận Dụng Thần Chú Đại Bi Vào Thiền Định
Như đã nói ở trên, muốn đạt đến cứu cánh giác ngộ không thể không
thông qua phương pháp thiền định. Nhưng khi nghe nói đến Thiền, một người Phật
tử bình thường khó hình dung ra nổi và nghĩ đến nó như là một cái gì đó mông
lung, trừu tượng, huyền bí. Thậm chí Phật tử rất hoang mang vì trong thời đại
hiện nay, có rất nhiều loại “thiền” khác nhau xuất hiện trên thị trường, được
khai thác nhằm mục đích thương mãi hơn là giúp con người đạt đến bến bờ giải
thoát, và đôi khi biến Thiền trở thành một cái “mốt” thời thượng làm người ta bối
rối và dễ bị mê lầm. Cho nên, để có thể tu tập đúng hướng, hành giả cần phải có
một số nhận thức căn bản đúng đắn về các loại Thiền Phật giáo.
5. Khái niệm về các loại Thiền Phật Giáo
Thiền chỉ (Thiền định) và Thiền quán (Thiền minh sát).
Thông thường khi nói đến Thiền là người ta thường nghĩ ngay đến thiền
đốn ngộ, đến “dĩ tâm truyền tâm”, đến những công án hóc búa… Hình ảnh của những
vị Thiền sư “hoát nhiên đạt ngộ” khi tâm thức bùng vỡ trước tiếng thét của một
bậc minh sư, khi soi mặt mình trên một vũng nước mưa đọng trước hiên nhà… bỗng
trở thành như những câu chuyện thần thoại, người căn cơ thấp kém khó mà lãnh hội
được ý nghĩa của sự đạt ngộ này. Như vậy phải chăng Thiền là một thứ “xa xỉ phẩm”
chỉ dành riêng cho những bậc thượng căn đã đứng mấp mé ở bên bờ giác ngộ, chỉ cần
chờ một sự khai thị đúng lúc là tỏ ngộ chân lý?
Dĩ nhiên Thiền không phải hoàn toàn như thế, bởi lẽ nếu hiểu Thiền
theo cung cách này thì lịch sử của tông phái Thiền Phật giáo trong suốt bao
nhiêu thế kỷ qua chỉ sản xuất ra được mấy chục vị Tổ!
Phải nên hiểu rằng các pháp hành thiền, như đã được lưu truyền đến nay
trong kinh điển, đều được căn cứ trên những phương pháp mà chính Đức Phật đã áp
dụng, căn
cứ trên sự kinh nghiệm của chính bản thân Ngài trong suốt quá trình tu
tập, trau giồi và phát triển tâm, pháp môn hành thiền đó đã đưa Ngài đến đạo quả
Vô Thượng Bồ Đề và Niết Bàn.
Để kiểm soát, uốn nắn và giải phóng tâm Phật giáo có hai loại Thiền
chính yếu sau đây:
Thiền chỉ hay Thiền định (samatha bhavana hay samadhi): là gom tâm vào
một điểm, hay thống nhất, tập trung tâm vào một đề mục (cittekaggata, Sanskrit
là cittaikagrata, nhất điểm tâm), tức là an trụ tâm.
Thiền Quán hay Thiền Minh Sát (vipassana, Sanskrit là vipasyana hay
vidarsana), – cũng gọi là thiền tuệ – tức là hướng tâm soi vào đời sống để chứng
ngộ thực tướng của vạn pháp.
Thiền quán đã được một vị danh tăng Phật giáo đương đại, Đại Đức
Piyadassi giải thích như sau:
“… Danh từ vipassanà (vi + passanà), trong một biến thể, có nghĩa là
“thấy một cách phi thường”, thấy khác với lối thấy thông thường, do hai thành
phần “passati” là thấy và “vi” hàm ý đặc biệt, khác lạ hơn thông thường. Như vậy,
vipassanà là thấy vượt ra ngoài cái gì thông thường, là minh tuệ. Đây không phải
là nhìn thoáng qua. Cũng không phải chỉ nhìn bên trên bề mặt, ở mặt ngoài mà
nhìn sâu vào bên trong Thực Tại của đời sống. Chính nhờ cái nhìn sâu sắc căn cứ
trên tâm hoàn toàn vắng lặng ấy mà hành giả tẩy sạch mọi bợn nhơ, mọi ô nhiễm
ngủ ngầm để thành mục tiêu cuối cùng, Niết Bàn. Thiền minh sát (vipassanà
bhàvanà) là loại thiền mà chính Đức Phật đã tìm ra, đã thực hành, đã thành công
và đã ban truyền, trước kia chưa từng có, và ngoài Phật Giáo không có …” (*)
Pháp hành “thiền chỉ” trong Phật Giáo đưa đến tột đỉnh là đắc Thiền
(Jhana), trong khi pháp hành “thiền quán” dẫn đến bốn tầng Thánh mà bậc Thánh cuối
cùng là A La Hán, hay tiến thêm một bước nữa là đạt quả vị Phật, giải thoát.
Cứu cánh tu tập của chúng ta dứt khoát là không nhắm đến trạng thái Định
hay thư giãn. Ta vận dụng công năng, oai lực của Thần Chú Đại Bi -bằng cách
chuyên tâm trì tụng Thần chú này một số biến nhất định- như là một pháp hành của
Thiền Chỉ, và chỉ xem đó như là một cổ xe đưa ta đến bến bờ giác ngộ. Cho nên,
khi tâm đã an trụ vững vàng, chúng ta bắt đầu bước vào Thiền minh sát, lúc này
dùng hình trạng và tướng mạo của Thần chú Đại Bi làm nội dung thiền quán: Tâm Đại
Từ Bi, Tâm Bình
Đẳng, Tâm Vô Vi,Tâm Không Quán… và nên được bắt đầu bằng Tâm Đại Từ
Bi.
Tại sao chúng ta bắt đầu nội dung Thiền quán bằng Tâm Đại Từ Bi?
Trước tiên, đây là một yêu cầu của Bồ Tát. Trì Chú Đại Bi sẽ không
linh nghiệm nếu không được phát khởi bằng Đại Bi tâm. Thứ hai, khi chọn phương
pháp thiền định dùng Thần Chú Đại Bi như là phương tiện – vắn tắt xin được tạm
gọi là Thiền Quán Âm- chúng ta đã phát tâm noi theo hạnh nguyện ban vui cứu khổ
của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nguyện trở thành một cánh tay, một chiến sĩ
trong đạo quân tình thương của Ngài, đem gieo rắc ánh sáng từ bi đến khắp muôn
loài chúng sanh, góp phần xây dựng một cỏi Tịnh Độ Nhân Gian trên cõi thế. Thiền
Quán Âm như thế là một loại thiền tích cực, đi thẳng vào đời sống, tác động vào
đồng loại, chúng sanh và môi trường sống. Hành giả khi dùng Thiền quán sẽ vận dụng
Tâm Đại Bi làm ngọn đuốc soi đường, rọi chiếu vào tất cả ngỏ ngách tâm linh và
hành động của chính mình trong từng mỗi phút giây hiện tại.
6. Làm Thế Nào Để Thực Hiện Đại Từ Bi Tâm Quán?
Từ Bi Quán là phương thức để huân tập lòng Từ Bi. Trong Phật giáo có rất
nhiều phương pháp Từ bi quán mà cố Hoà Thượng Thích Thiện Hoa đã giảng rõ trong
cuốn “Phật Học Phổ Thông”, ở đây xin được tóm tắt lại bằng ba phép quán từ thấp
đến cao như sau:
Quán chúng sinh duyên từ: Quán sát cảnh khổ của chúng sinh ở trong cõi
dục giới mà phát khởi lòng từ.
Những kẻ bị đọa ở địa ngục hiện đang bị hành phạt, loài ngạ quỷ đói
khát..
Loài súc sanh (trâu, bò heo, gà…) bị hành hình, phân thây xẻ thịt làm
thức ăn cho loài khác…
Loài a tu la phải đấu tranh chém giết
Chúng sanh ở cõi trời khi hết phước đức cũng phải bị đọa lạc
Những cảnh khổ của kiếp người…
Thấy được những cảnh khổ của chúng sinh, để cho lòng từ bi phát khởi,
Phật dạy ta phải xem tất cả chúng sinh như là bà con thân thuộc trong một đại
gia đình. Nhân loại như đang sống trong một ngôi nhà lớn và rộng ra các loài
khác cũng là thành phần của một đại gia đình, do nghiệp duyên ràng buộc, có thể
họ đã là bà con quyến thuộc của ta trong kiếp trước hoặc sẽ là anh em cha mẹ ta
trong những kiếp tương lai…
Quán Pháp duyên từ: Cao hơn một bậc, hành giả có thể quán sát thấy tất
cả chúng sanh đều có chung pháp tánh cho nên nói như ngài Duy Ma Cật, “vì chúng
sanh bệnh nên ta bệnh”, chúng sanh khổ nên ta khổ và vì thế ta tìm cách cứu độ
chúng sanh. Ta cứu khổ nhưng không cần biết đối tượng được cứu khổ và cũng
không chấp rằng ta đang cứu khổ vì ta và chúng sanh đã đồng một bản thể, đồng một
pháp giới tánh.
Quán Vô duyên từ: Đây là lòng từ bi của chư Phật, theo thể tánh chơn
tâm mà phát ra, bao la trùm khắp, không thiên lệch một nơi nào như ánh sáng mặt
trời chiếu rọi khắp gần xa một cách vô tư, không dụng công và không bỏ sót một
nơi nào. Loại này chúng ta chỉ biết qua chứ không áp dụng vào thiền tập vì quá
cao siêu.
7. Thần Chú Đại Bi, Một Con
đường tắt đến Tịnh Độ
Nói đến Thần Chú Đại Bi, nói đến tu tập Thiền định, ta không thể không
nói đến Tịnh Độ. Tại sao? Bởi vì chuyện sinh tử là chuyện quan trọng của đời
người. Ta nhận thức được rằng kiếp sống thế gian rất ngắn ngủi và ta cũng không
muốn luẩn quẩn mãi trong cảnh luân hồi sinh tử cho nên ta tu tập để mong cầu
vươn đến một cảnh giới đích thực, vĩnh cữu. Cảnh giới đó có thể mang tên là Niết
Bàn. Cảnh giới đó cũng có thể là Tịnh Độ.
Trước hết, khi nói đến Tịnh Độ, Phật tử thường liên tưởng ngay đến một
cảnh giới cực lạc. Đó là một cảnh giới lý tưởng, đẹp đẽ, an lành mà bất cứ người
con Phật nào cũng thường ước mơ được vãng sanh đến sau khi từ giã cõi đời. Đức
Thế Tôn đã tuyên xưng rất nhiều cảnh giới Tịnh Độ trong các kinh sách, mà đặc
biệt là cảnh giới Tây phương Cực lạc của Phật A Di Đà. Để đạt đến cảnh giới
này, pháp môn Tịnh Độ đặt nền móng tu tập trên ba nguyên tắc căn bản: Tín, Nguyện
và Hạnh. Trước hết là lòng tin. Ta tin có sự hiện hữu của cõi Tịnh Độ Tây
phương do Đức A Di Đà làm giáo chủ. Tin như thế ta Nguyện sẽ được vãng sanh về
cảnh giới này. Nguyện được thể hiện bằng Hạnh qua phương thức trì danh, tức là
trong suốt hành trình tu tập của mình ta phải hành trì pháp môn niệm Phật A Di
Đà cho đến “nhất tâm bất loạn”, thì chắc chắn sẽ được Ngài tiếp dẫn ta về cảnh
giới này sau khi ta từ giã cõi đời.
Một cảnh giới Tịnh Độ khác cũng thường được Đức Thế Tôn nhắc tới đó là
cung trời Đâu Suất (Tutsia) của D nhéi Lặc, vị Bồ Tát đã được Phật Thích Ca thọ
ký sau này sẽ trở xuống cõi trần thành lập hội Long Hoa và trở thành vị Phật
tương lai. Nỗ lực của Ngài là hóa độ quần sanh, biến cõi nhân gian thành Tịnh Độ.
Quan niệm Tịnh Độ này rất phù hợp với niềm tin và hạnh nguyện của người tu tập
theo pháp hành Thiền Quán Âm bởi tính tích cực của nó. Bắt nguồn từ phương châm
“Học Phật đạo, hành Bồ Tát đạo”, ta sẽ không bao giờ mong cầu mình được sanh về
một thế giới cực lạc, hoặc Niết Bàn cho riêng mình. Đây là thông 7 chính yếu của
Thần chú Đại Bi, tiếng Phạn là Maha Karuna, mà Karuna có nghĩa là “ngưng tìm kiếm
hạnh phúc”. Ta ngưng tìm kiếm hạnh phúc, Niết bàn cho chính ta khi muôn loài
chúng sanh chưa hạnh phúc, an lạc, chưa đạt được cảnh giới Niết Bàn, như Đức Di
Lặc đã thuyết trong kinh Trang Nghiêm Minh Giác: “Với từ bi ta không trụ nơi cực
lạc an bình”, có nghĩa là với Đại Từ Bi ta không mưu cầu sự giải thoát cá nhân.
Như vậy, nếu hiểu Tịnh Độ là pháp môn dựa trên căn bản Tín, Nguyện, Hạnh,
thì phương pháp hành Thiền sử dụng Thần Chú Đại Bi cũng không xa lìa pháp môn Tịnh
Độ, chỉ khác một điểm nhỏ là thay vì trì tụng danh hiệu Phật A Di Đà, chúng ta
trì tụng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Bi Thần Chú. Đến đây, những hành
giả bị ảnh hưởng sâu đậm bởi tư tưởng Tịnh Độ -những người thường lo lắng đến hậu
sự - chắc chắn sẽ nêu ra câu hỏi: Nhưng rồi sau khi quá vãng, chúng ta, những
người tu tập Thiền định -Thiền Quán Âm, nếu không đạt được giác ngộ trong hiện
kiếp sẽ vãng sanh về đâu?
Thưa bạn, câu hỏi đặt ra thật đúng lúc, vì qủy vô thường có thể đến
thăm viếng ta bất cứ lúc nào, tốt hơn hết là ta nên chuẩn bị. Tuy nhiên, bạn
cũng đừng phí thì giờ để lo nghĩ nhiều đến vấn đền này vì bạn nhớ không, trong
kinh Đại Bi, Bồ Tát Quán Thế Âm đã khả hứa với chúng ta rằng những người trì tụng
thần chú Đại Bi chắc chắn sau khi chết sẽ không bị rơi vào con đường ác đạo. Những
điều Bồ Tát đã hứa là chắc chắn không thể nào thay đổi, có nghĩa là bạn đã biết
chắc một điều rằng mình sẽ không bao giờ bị rơi vào con đường ngạ quỹ, địa ngục
hay súc sanh. Như vậy vấn đề còn lại quả thật rất đơn giản: Bạn có quyền tự do
lựa chọn cảnh giới Tịnh Độ mà mình mong muốn để được vãng sanh kể cả về Tây
Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
Tuy nhiên, do noi theo hạnh nguyện cứu khổ cứu nạn của Bồ Tát Quán Thế
Âm, người hành Thiền Quán Âm như đã nói ở trên, khônnng phải chỉ mưu cầu giải
thoát cho riêng cá nhân mình mà còn muốn bắt tay vào việc cãi thiện xã hội, môi
trường, xây dựng một cõi Tịnh Độ nhân gian trên cõi thế, cho muôn loài chúng
sanh, trong thời đại mà chúng ta đang sống cho nên gần gũi hơn với Tịnh Độ Di Lặc.
Do tính cách tích cực đó, xin được đề nghị thêm với bạn ba cảnh giới sau đây để
suy nghĩ và chọn lựa. Sau khi đã có quyết định, bạn phải phát nguyện ngay cùng
Bồ Tát Quán Thế Âm để Ngài thọ ký cho và chắc chắn bạn sẽ được Ngài hiện đến tiếp
dẫn trước phút lâm chung, hướng dẫn bạn đến cảnh giới mong cầu:
Tái sanh trở lại cõi trần tiếp tục hành Bồ tát đạo, hoằng pháp lợi
sanh, b88 ựuiến cõi nhân gian thành Tịnh Độ.
Về cảnh giới của Bồ Tát Địa Tạng, tức là xuống cõi địa ngục tiếp tục
tu tập cùng Bồ Tát, thực hành công hạnh theo lời nguyện: “Nếu con hướng về cõi
địa ngục, địa ngục liền mau tự tiêu tan”.
Về cõi Trời Đâu Suất của Bồ Tát Di Lặc để tiếp tục tu học, cho đến khi
nào Bồ Tát giáng trần ta sẽ cùng theo chân Ngài trở lại cõi thế dự hội Long
Hoa.
Tuy nhiên, xin được nhắc lại một lần nữa, điều quan trọng nhất là
chúng ta hiện đang sống trong cõi thế này, trong giây phút hiện tại này, cho
nên công việc trước mắt của người Phật tử chúng ta là phải bắt tay ngay vào việc
xây dựng một cõi Tịnh Độ Nhân Gian, tức cũng là cõi Tịnh Độ Di Lặc mà mọi Phật
tử đều mong cầu, mơ ước. Đó cũng chính là thông điệp của Thần Chú Đại Bi.
Xin chắp tay trì tụng và hồi hướng công đức vô lượng của Thần Chú này
đến muôn loài chúng sanh… 🙏🙏🙏
Theo tác giả: Tâm Hà (Lê Công Đa)]